Sunday, August 11, 2024

 SECRECY AND PUBLICITY

THE Buddha said: "Three things, O disciples, are characterized by secrecy: love affairs, priestly wisdom, and all aberrations from the path of truth. Women who are in love, O disciples seek secrecy and shun publicity; priests who claim to be in possession of special revelation, O disciples, seek secrecy and shun publicity; all those who stray from the path of truth, O disciples, seek secrecy and shun publicity.
"Three things, O disciples, shine before the world and cannot be hidden. What are the three? The moon, O disciples, illumines the world and cannot be hidden; the sun, O disciples, illumines the world and cannot be hidden; and the truth proclaimed by the Tathagata illumines the world and cannot be hidden. These three things, O disciples, illumine the world and cannot be hidden. There is no secrecy about them."


Google translate:

BÍ MẬT VÀ CÔNG KHAI

Đức Phật nói: "Ba điều, hỡi các đệ tử, được đặc trưng bởi sự bí mật: chuyện tình cảm, trí tuệ của tu sĩ, và mọi sự sai lệch khỏi con đường chân lý. Những người phụ nữ đang yêu, hỡi các đệ tử, tìm kiếm sự bí mật và tránh công khai; những tu sĩ tự nhận mình sở hữu sự mặc khải đặc biệt, hỡi các đệ tử, tìm kiếm sự bí mật và tránh công khai; tất cả những ai lạc lối khỏi con đường chân lý, hỡi các đệ tử, tìm kiếm sự bí mật và tránh công khai.

"Ba điều, hỡi các đệ tử, chiếu sáng thế gian và không thể che giấu. Ba điều đó là gì? Mặt trăng, hỡi các đệ tử, chiếu sáng thế gian và không thể che giấu; mặt trời, hỡi các đệ tử, chiếu sáng thế gian và không thể che giấu; và chân lý do Như Lai tuyên bố chiếu sáng thế gian và không thể che giấu. Ba điều này, hỡi các đệ tử, chiếu sáng thế gian và không thể che giấu. Không có bí mật nào về chúng."

 THE PREACHER'S MISSION

Google translate:

SỨ MẠNG CỦA NGƯỜI HOẰNG PHÁP
Đức Thế Tôn đã nói với các đệ tử của mình: "Khi ta đã qua đời và không còn có thể nói chuyện với các ngươi và khai sáng tâm trí các ngươi bằng bài giảng tôn giáo nữa, hãy chọn trong số các ngươi những người đàn ông từ một gia đình tốt và có học thức tốt để thuyết giảng chân lý thay ta. Và hãy để những người đàn ông đó được khoác lên mình chiếc áo choàng của Như Lai, hãy để họ vào nơi ở của Như Lai và chiếm giữ bục giảng của Như Lai.
"Áo choàng của Như Lai là sự kiên nhẫn và nhẫn nại cao cả. Nơi ở của Như Lai là lòng từ thiện và tình yêu thương đối với tất cả chúng sinh. Bục giảng của Như Lai là sự hiểu biết về luật tốt theo nghĩa trừu tượng cũng như trong ứng dụng cụ thể của nó.
"Người thuyết giáo phải đưa ra chân lý với tâm trí không nao núng. Người đó phải có sức thuyết phục bắt nguồn từ đức hạnh và lòng trung thành tuyệt đối với lời thề của mình. Người thuyết giáo phải giữ đúng phạm vi của mình và kiên định trong con đường của mình.
Người ấy không nên tỏ lòng kiêu ngạo của mình bằng cách tìm kiếm sự giao du của những người vĩ đại, cũng không nên giao du với những người phù phiếm và vô đạo đức. Khi bị cám dỗ, người ấy nên liên tục nghĩ đến Đức Phật và người ấy sẽ chiến thắng.
"Mặc một chiếc áo choàng sạch sẽ, nhuộm màu đẹp, với đồ lót thích hợp, anh ta phải bước lên bục giảng với một tâm trí không có lỗi lầm và hòa bình với toàn thế giới. Anh ta không được thích thú với những cuộc tranh luận gây gổ hoặc tham gia vào các cuộc tranh cãi để thể hiện sự vượt trội của tài năng của mình, nhưng phải bình tĩnh và điềm đạm.
Không có cảm giác thù địch nào tồn tại trong trái tim của người đó, và người đó không bao giờ được từ bỏ khuynh hướng từ thiện đối với tất cả chúng sinh. Mục đích duy nhất của người đó phải là tất cả chúng sinh trở thành Phật.  Hãy để người thuyết pháp tận tụy với công việc của mình, và Như Lai sẽ chỉ cho người đó thấy toàn bộ giáo lý thánh thiện trong vinh quang siêu việt của nó. Người ấy sẽ được tôn vinh là người được Như Lai ban phước. Như Lai ban phước cho người thuyết pháp và cả những người cung kính lắng nghe và vui vẻ chấp nhận giáo lý.
"Tất cả những ai tiếp nhận chân lý sẽ tìm thấy sự giác ngộ hoàn hảo. Và, thực sự, đó là sức mạnh của giáo lý mà ngay cả khi chỉ đọc một khổ thơ, hoặc bằng cách đọc thuộc lòng, sao chép và ghi nhớ một câu duy nhất của luật tốt, mọi người có thể được chuyển đổi sang chân lý và bước vào con đường công chính dẫn đến sự giải thoát khỏi điều ác.
Những chúng sinh bị dao động bởi những đam mê bất tịnh, khi họ lắng nghe tiếng nói, sẽ được thanh lọc. Những kẻ ngu si mê đắm trong sự điên rồ của thế gian, khi suy ngẫm về sự sâu sắc của giáo lý, sẽ đạt được trí tuệ. Những người hành động theo sự thúc đẩy của lòng hận thù, khi quy y Đức Phật, sẽ tràn đầy thiện chí và tình yêu.
"Một nhà thuyết giáo phải tràn đầy năng lượng, và hy vọng vui vẻ, không bao giờ mệt mỏi và không bao giờ tuyệt vọng về thành công cuối cùng. Một nhà thuyết giáo phải giống như một người đi tìm nước đào giếng trên một vùng đất khô cằn. Miễn là anh ta thấy cát khô và trắng, anh ta biết rằng nước vẫn còn xa. Nhưng đừng để anh ta bối rối hoặc từ bỏ nhiệm vụ vì vô vọng.  Công việc loại bỏ cát khô phải được thực hiện để anh ta có thể đào sâu hơn vào lòng đất. Và thường thì anh ta càng phải đào sâu, nước sẽ càng mát hơn, tinh khiết hơn và tươi mát hơn. Khi sau một thời gian đào, anh ta thấy cát trở nên ẩm ướt, anh ta chấp nhận điều đó như một dấu hiệu cho thấy nước đã gần. Miễn là mọi người không lắng nghe những lời chân lý, nhà thuyết giáo biết rằng anh ta phải đào sâu hơn vào trái tim họ; nhưng khi họ bắt đầu chú ý đến lời nói của anh ta, anh ta hiểu rằng họ sẽ sớm đạt được sự giác ngộ.
"Hỡi những người đàn ông từ gia đình tốt và học vấn tốt, những người đã phát nguyện thuyết giảng lời của Như Lai, Đức Thế Tôn trao, giao phó và tuyên dương luật chân lý tốt đẹp. Hãy tiếp nhận luật chân lý tốt đẹp, hãy giữ gìn, đọc đi đọc lại, thấu hiểu, công bố và thuyết giảng cho tất cả chúng sinh trong mọi miền của vũ trụ.  "Đức Như Lai không hề tham lam, cũng không hẹp hòi, và Ngài sẵn lòng truyền đạt Phật pháp toàn hảo cho tất cả những ai sẵn sàng và mong muốn tiếp nhận. Hãy tập hợp những người nghe thích lắng nghe những lời nhân từ và an ủi của Pháp ; hãy đánh thức những người không tin để chấp nhận lẽ thật và lấp đầy họ bằng sự vui thích và hân hoan. Hãy làm cho họ sống động, gây dựng họ, và nâng họ lên ngày một cao hơn cho đến khi họ nhìn thấy lẽ thật mặt đối mặt trong tất cả sự huy hoàng và vinh quang vô hạn của nó."
Khi Đức Thế Tôn đã nói như vậy, các đệ tử nói: "Hỡi Ngaì vui mừng trong lòng nhân từ có nguồn gốc từ lòng trắc ẩn, hỡi đám mây lớn của những phẩm chất tốt đẹp và của tâm từ bi, Ngài dập tắt ngọn lửa đang làm phiền chúng sinh, Ngài đổ ra mật hoa, mưa của giáo Pháp! Chúng tôi sẽ làm, Oh 'Lord', những gì Như Lai truyền lệnh. Chúng tôi sẽ thực hiện lời chỉ thị của Ngài; the 'Lord' sẽ thấy chúng tôi vâng theo lời Ngài.
Và lời nguyện này của các đệ tử vang vọng khắp vũ trụ, và như một tiếng vọng, nó vọng lại từ tất cả các vị Bồ tát đã và sẽ đến để truyền bá luật Chân lý tốt đẹp cho các thế hệ tương lai.Và Đức Thế Tôn nói: "Như Lai giống như một vị vua hùng mạnh cai trị vương quốc của mình bằng sự chính trực, nhưng bị kẻ thù đố kỵ tấn công nên phải ra trận để chống lại kẻ thù của mình. Khi nhà vua nhìn thấy quân lính của mình chiến đấu, ông rất vui mừng với lòng dũng cảm của họ và sẽ ban tặng cho họ đủ loại quyên góp.
Các ngươi là những chiến sĩ của Như Lai, trong khi Ma Vương, Kẻ Ác, là kẻ thù cần phải bị đánh bại, Như Lai sẽ ban cho những chiến sĩ của mình thành phố Niết Bàn, thủ đô vĩ đại của chánh pháp. Và khi kẻ thù bị đánh bại, Dharma-raja, vị vua vĩ đại của chân lý, sẽ ban cho tất cả các đệ tử của mình chiếc vương miện quý giá nhất, viên ngọc đó mang lại sự giác ngộ hoàn hảo, trí tuệ tối thượng và sự bình an không bị quấy rầy."
Enjoy!



Friday, August 9, 2024


MỤC TIÊU

Đức Thế Tôn đã nói với các Tỳ kheo như sau: "Chính vì không hiểu được bốn chân lý cao quý, (Tứ diệu đế) hỡi các Tỳ kheo, mà chúng ta phải lang thang lâu như vậy trên con đường mệt mỏi của luân hồi, cả các bạn và tôi.

Thông qua tiếp xúc, tư tưởng được sinh ra từ cảm giác, và được tái sinh bằng cách tái tạo hình dạng của nó. Bắt đầu từ những hình dạng đơn giản nhất, tâm trí tăng lên và giảm xuống theo hành động, nhưng nguyện vọng của một vị Bồ tát theo đuổi con đường thẳng của trí tuệ và công lý, cho đến khi họ đạt được sự giác ngộ hoàn hảo trong Vị Quả Phật.

"Mọi loài sinh vật hiện hữu như thế nào là do nghiệp quả của những việc họ đã làm trong kiếp trước và kiếp này.

"Bản chất lý trí của con người là tia sáng của ánh sáng chân chính; đó là bước đầu tiên trên con đường hướng lên. Nhưng sự tái sinh là cần thiết để đảm bảo sự thăng tiến lên đỉnh cao của sự tồn tại, sự khai sáng của tâm trí và trái tim, nơi ánh sáng vô hạn của sự hiểu biết đạo đức được đạt tới, nguồn gốc của mọi sự chân chính.

Sau khi đạt được sự tái sinh cao hơn này, tôi đã tìm thấy chân lý và đã dạy cho bạn con đường cao quý dẫn đến thành phố hòa bình. Tôi đã chỉ cho bạn con đường đến hồ nước 
cam lồ (ambrosia) nơi rửa sạch mọi ham muốn xấu xa. Tôi đã ban cho bạn thức uống tươi
mát được gọi là nhận thức về chân lý, và người uống nó sẽ thoát khỏi sự kích thích, đam mê và hành động sai trái.

"Các vị thần cũng ghen tị với hạnh phúc của người đã thoát khỏi dòng lũ đam mê và đã leo lên bờ Niết bàn. Trái tim của người đó được thanh lọc khỏi mọi ô nhiễm và thoát khỏi mọi ảo tưởng. Người đó giống như hoa sen mọc trong nước, nhưng không một giọt nước nào bám vào cánh hoa của nó. Người bước đi trên con đường cao quý sống trong thế gian, nhưng trái tim của người đó không bị ô uế bởi những ham muốn thế gian.

"Kẻ nào không thấy được Tứ diệu đế, kẻ nào không hiểu được  ba đặc điếm ̣(Vô Ngã, Vô thường, Khô đau)  và chưa trụ vào cõi vô sanh, vẫn còn một chặng đường dài phải đi qua bằng cách tái sinh liên tục qua sa mạc vô minh với những ảo ảnh của ảo tưởng và qua vũng lầy của sai lầm.

Nhưng giờ đây khi bạn đã đạt được sự hiểu biết, nguyên nhân của những cuộc di động và sự sai lệch tiếp theo đã được loại bỏ. Mục tiêu đã đạt được. Sự thèm khát ích kỷ đã bị phá hủy, và sự thật đã đạt được. Đây là sự giải thoát thực sự; đây là sự cứu rỗi; đây là thiên đường và hạnh phúc của một cuộc sống bất tử."

Kim

Khi đọc và dịch bài này , Google translate, tôi lại nghĩ đến Minh Tuệ, một học trò của ĐP đang thực hành lời giao huấn.  

Tôi nghĩ Minh Tuệ khi học PP thầy đã nghiền ngẫm những lời của Phật thấm vào trái tim.  Minh Tuệ còn nói đã trải qua nhiều kiếp ngồi trong hang đá, tâp luyện cả ngàn kiếp rồi mơi được thực hành nhu ngày nay.

Cầu mong M. Tuệ sớm đạt quả vị Phật A Di Đà để hướng dẫn chúng sanh qua khoỉ trầm luân.


kim


Wednesday, August 7, 2024

 

VỀ HÀNH VI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ

Các Tỳ kheo đến gặp Đức Thế Tôn và hỏi Ngài: "Hỡi Như Lai, Đức Chúa (Lord)  và Bậc Thầy của chúng con, Ngài quy định hành vi nào đối với phụ nữ cho các sa môn đã rời bỏ thế gian?"

Đức Thế Tôn nói: "Hãy cẩn thận không nhìn phụ nữ. Nếu các ngươi nhìn thấy một người phụ nữ, hãy coi như không nhìn thấy cô ấy, và đừng nói chuyện với cô ấy. Nếu sau cùng, các ngươi phải nói chuyện với cô ấy, hãy nói chuyện với cô ấy bằng trái tim trong sáng, và tự nghĩ rằng, 'Ta là một sa môn sẽ sống trong thế giới tội lỗi này như chiếc lá sen tinh khiết, không bị vấy bẩn bởi bùn mà nó mọc lên.'

"Nếu người phụ nữ đã già, hãy coi bà ấy như mẹ của bạn, nếu còn trẻ, hãy coi bà ấy như chị gái của bạn, nếu còn rất trẻ, hãy coi bà ấy như con của bạn. Người sa môn nào nhìn một người phụ nữ như một người phụ nữ, hoặc chạm vào bà ấy như một người phụ nữ, đã phá vỡ lời thề của mình và không còn là đệ tử của Như Lai nữa. Sức mạnh của dục vọng rất lớn đối với đàn ông, và cũng đáng sợ; vậy thì hãy cầm cung của sự kiên trì nghiêm túc, và những mũi tên sắc nhọn của trí tuệ. Hãy đội mũ sắt của tư tưởng đúng đắn lên đầu bạn, và chiến đấu với quyết tâm kiên định chống lại năm ham muốn. Dục vọng che phủ trái tim của một người đàn ông, khi nó bị nhầm lẫn với vẻ đẹp của phụ nữ, và tâm trí bị choáng váng.

"Tốt hơn là dùng sắt nung đỏ khoét cả hai mắt, còn hơn là khuyến khích trong mình những suy nghĩ nhục dục, hoặc nhìn vào hình dáng của một người phụ nữ với những ham muốn dâm dục. Tốt hơn là rơi vào miệng hổ dữ, hoặc dưới lưỡi dao sắc nhọn của đao phủ, còn hơn là sống với một người phụ nữ và kích thích trong mình những suy nghĩ dâm dục.

"Một người phụ nữ trên thế gian này luôn muốn phô bày hình dáng và vóc dáng của mình, dù là khi đi, đứng, ngồi hay ngủ. Ngay cả khi được miêu tả như một bức tranh, cô ấy vẫn muốn quyến rũ bằng vẻ đẹp của mình, và do đó cướp đi trái tim kiên định của đàn ông. Vậy thì các người nên tự bảo vệ mình như thế nào? Bằng cách coi những giọt nước mắt và nụ cười của cô ấy là kẻ thù, coi dáng người khom khom, cánh tay buông thõng và mái tóc rối bù của cô ấy là những công việc được thiết kế để bẫy trái tim đàn ông. Vì vậy, ta nói rằng, hãy kiềm chế trái tim, đừng cho nó quyền tự do không kiềm chế."

Google translate from :

=================================

ON CONDUCT TOWARD WOMEN
THE bhikkhus came to the Blessed One and asked him: "O Tathagata, our Lord and Master, what conduct toward women dost thou prescribe to the samanas who have left the world?"
The Blessed One said: "Guard against looking on a woman. If ye see a woman, let it be as though ye saw her not, and have no conversation with her. If, after all, ye must speak with her, let it be with a pure heart, and think to yourself, 'I as a samana will live in this sinful world as the spotless leaf of the lotus, unsoiled by the mud in which it grows.'
"If the woman be old, regard her as your mother, if young, as your sister, if very young, as your child. The samana who looks on a woman as a woman, or touches her as a woman, has broken his vow and is no longer a disciple of the Tathagata. The power of lust is great with men, and is to be feared withal; take then the bow of earnest perseverance, and the sharp arrow-points of wisdom. Cover your heads with the helmet of right thought, and fight with fixed resolve against the five desires. Lust beclouds a man's heart, when it is confused with woman's beauty, and the mind is dazed.
"Better far with red-hot irons bore out both your eyes, than encourage in yourself sensual thoughts, or look upon a woman's form with lustful desires. Better fall into the fierce tiger's mouth, or under the sharp knife of the executioner, than dwell with a woman and excite in yourself lustful thoughts.
"A woman of the world is anxious to exhibit her form and shape, whether walking, standing, sitting, or sleeping. Even when represented as a picture, she desires to captivate with the charms of her beauty, and thus to rob men of their steadfast heart. How then ought ye to guard yourselves? By regarding her tears and her smiles as enemies, her stooping form, her hanging arms, and her disentangled hair as toils designed to entrap man's heart. Therefore, I say, restrain the heart, give it no unbridled license."
==============================

Xem cho vui:









https://www.facebook.com/share/r/Tky7jfT9y3tyfqSa/?mibextid=rYkE1A 

Monday, August 5, 2024

 

Cam nghi ve chuyen HH An Do

 

 October 2010


Các Bạn Mến, có gì thiếu sót và không đúng thứ tự xin cho biết.

Trong email trước kb viết bằng tiếng Anh là do cảm xúc tự nhiên về một hành trình tâm linh. Thế nên khi diễn tả, kb cảm thấy Anh ngữ có hiệu lực trong vấn đề này nhiều hơn là Việt Ngữ. Xin quí bạn thông cảm.

Kb có duyên và quyết định nhanh chóng khi nhận được tin tức có một chuyến hành hương với nghi thức cầu nguyện hơn là du lịch sang Ấn Độ nhờ một vị chuyển thơ mời qua net. Nhưng thực ra nếu không có các Phật tích thì Ấn Độ không phài là nơi để đi du lịch.

Tuy chưa từng biết gì về Thầy Thích Tánh Tuệ hay Mắt Thương Nhìn Đời ở CA nhưng Kb không hề có sự dè dặt khi ghi danh tham dự cuộc hành trình này.

Kb rời CA vài năm trước nên chỉ theo dõi sinh họat cộng đồng bên đó qua net thôi. Vài năm về trước Kb cũng đã từng được vài bạn rủ đi hành hương Ấn Độ nhưng ngại vì rất sợ cảnh tả cực nhọc qua kinh nghiệm của những người đi trước.

Thế nhưng do sự thành kính nhớ ơn Đức Bổn Sư Thích Ca, Kb cảm thấy hồ hởi tham dự năm nay mà không có một mảy may lo ngại gì cả. Kb lại cố lôi cuốn rủ thêm một ông bạn đi theo nữa. Kb ngại rằng không đi năm nay chắc đâu có dip khác?

Người ta thường nói có duyên lắm mới tới được Tứ Thánh Địa của Phật:

Lumbini: Nơi Đức Phật ra đời
BodhGaya: Nơi Đức Phật thành đạo
Kusaranasi: Nơi Đức Phật chuyển Pháp luân cho 5 anh em Kiều Trần Như 
Kushinagar: Nơi Ngài nhập Đại Niết Bàn.

Khởi hành 10/16 - trở về 10/31/2010

Nhờ sự hướng dẫn kinh nghiệm của Thầy T́anh Tuệ, và sự chăm lo chu đáo cho đoàn nên chúng tôi thấy rất là có phước. Thầy cho biết 50 người ghi tên, rồi rốt cuộc chỉ có 22 người có duyên nhập đoàn. Một cặp vơ chồng trẻ nhiệt tình từ Mỹ về VN đem mẹ già 80 tuồi cùng một bà cô theo đoàn. Sau khi kết thuć họ lại trở lại VN trước khi về làm việc lại tai Mỹ. Có một cô theo Công giáo nhưng đi theo hai vợ chồng anh chị đạo Phật. Theo cô ta kể, tuy cô baptised Thien Chua Giao nhưng cô có duyên với Đạo Phật hơn. Cô quỳ lạy, đọc kinh và hiểu Phật Pháp khá tinh tấn lắm.

Trong suốt chuyến đi, các Phật tử rất là nhiệt tình, thành tâm, hiểu đạo nên không có gì khúc mắc bất bình chi cả. Điều này Thầy rất hài lòng.Thầy Tánh Tuệ có một tour guide, tài xế xe bus và người phụ tá, họ là ngườì Ấn Đô hay còn gọi là Indies.Thầy mời thêm một thầy Lama Tây Tạng và một ni cô VN đang tu học tháp tùng pḥu với thầy làm lễ và lo cho đoàn đầy đủ. Thầy lại là một nhân vật văn hoa đa dạng cởi mở, vui vẻ, giảng Pháp rõ ràng. Cả đòan ai cũng đóng góp văn thơ, ca nhạc truyện trò vui vẻ, nên quên giờ ngồi lâu trên bus.

Nói chung các hotels và phương tiện xe bus chuyên chở không có gì để phàn nàn cả. Tuy tháng mười nhưng khí hậu bên Ầ́n vẫn còn oi bức như ở VN. May vừa hết mùa mưa chợ búa còn có ít rau như bông cải, cà tím, cà chua, dưa chuột, rau xanh, mướp bí...cho nhà hàng cung cấp cơm chay cho khách. 

Nên nhớ quí vị ạ, khi sang nước Ấn, nơi địa ngục trần gian này, các bạn phải, khi bước lên máy bay tại phi trường USA, bỏ tất cả những tiện nghi của nước Mỹ lai sau lưng và chuẩn bị tinh thần cho chuyến đi vào lịch sử. Sau bao nhiêu năm tôi ngại tham dự; bây giờ tình thế khá hơn, các hotels và tour bus có máy lạnh đã làm giảm sự khó nhọc của hành trình này cho tôi.

Đến nơi New Dehli Airport, chúng tôi được tiếp đón và trao vòng hoa giao duyên. Ngủ qua đêm ở Hotel và sau khi ăn sáng, chúng tôi đi thăm Khải hoàn Môn, đền Tajmahal. Chiều tối khăn gói lên tầu xe lửa đi Varanasi hay thành Vương Xá. Sáng vô hotel tắm rửa rồi đi thăm viện bảo tàng nơi lưu giữ xá lợi của Đức Phật. 

Chúng tôi ngồi trước tháp vàng, do vương quốc Thái Lan tặng, tụng kinh và thiền 10 phút. Sau đó thăm nới đức Phật gỉang pháp cho 5 anh em Kiều Trần Như, một ngôi đền của Thái Lan.Qua ngày tiếp chúng tôi lên xe tour bus sang Xá Vệ Thành. 

Thầy kêu chúng tôi dạy thật sớm 5 giờ sáng để ra kip̣ đón bình minh trên sông Hằng. Trước kia tôi chỉ tưởng tới sông Hằng dễ dàng, và sẽ thấy cảnh như qua hình trên net. Nhưng khi xe bus drop chúng tôi xuống, họ phải đậu xe ngoài phố cách sông một con đường. Lúc trời còn loạng choạng tối, phố xá chen chúc vì rất nhiều dân Ấn cũng đổ ra bến để ra sông cầu nguyện. Vì vậy chúng tôi phài cố gắng đi nhanh, mắt chăm chú nhình xuống lộ, để khỏi đạp lên các phân uế của mọi loài. Mùi hôi tanh của tất cả mọi phế thải cuồn cuộn tuy trong một buổi sáng tinh sương. Các bà, các cô người địa phương mặc áo Sarhi nhưng đi chân đất hồ hởi lũ luợt đi về hướng sông Hằng.

Qua sang khỏi con đường đông nghẹt, chúng tôi được dẫn qua một khu nhà với ngõ hẹp, và lại phải coi chừng khỏi dẫm lên ćac bãi "mìn mềm." Tới nơi, chúng tôi phải leo xuống hơn chục bậc thang rồi mới tới thuyền để leo vô ngồi. Thật là phải qua 3 cửa ải mới tới nơi linh thiêng.

Hôm đó, nước thuỷ triều lên cao, không có thiêu xác đang tiến hành, nhưng chính mắt tôi thấy hai xác chết bó trôi ngang. Chúng tôi lên thuyền, Thầy tụng kinh Vãng Sanh, cầu cho vong linh người đã khuất, rôì mọi người thả nến trên sông. Khi Thầy lên tiếng tụng bài kinh, tôi không cầm được xúc cảm và bật lên nức nở, cảm thấy lòng quặn đau. Nếu được và không làm cho bạn cùng đoàn cảm xúc, tôi muốn khóc to hơn lên và khóc cho hết nước mắt lúc bấy giờ. Đến vài tối sau, nghĩ đến cảnh của dân tình nghèo khổ, tôi lại rướm nước mắt, tim đau nhói. Và vì thế tôi khuất mặt trong các chương trình phát chẩn sau này. Tôi thật là người dễ khóc.

Sông Hằng không phải là Phật tích. Nhưng khi Đức Phật giảng Ngài hay dùng cát sông Hằng làm tiêu chuẩn đo lường khổ aỉ trần gian. Ngài cũng từng tắm nơi đây. Nhưng chỉ có một khúc sông này coi là linh thiêng nhất. Người ta xuống tắm và mang nước sông về uống.

Sau khi rời sông Hằng chúng tôi khởi hành đi Sravasti, Thành Xá Vệ̣, đến thăm nơi Đức Phật thi thố thần thông với ngoại đạo, Kantamjetiya, Kỳ viên tịnh xá, Jetavana, thăm nhà trưởng giả cấp Cô Độc, Anathabindika. Nên nhấn mạnh là kiến trúc thời Phật Thích ca rất kiên cố, phần lớn là gạch nung đỏ, chồng chất làm nhiều lớp rất dày để chống nắng, tránh mưa và lạnh.

Kỳ viên tịnh xá thật là êm ả, thanh tịnh. sạch sẽ. Xin ghi chú là tất cả các thánh địa do người Hindu cai quản. Tới nơi khi trời mới sáng đã có một đoàn chừng 300 Sư Tăng, và Phật tử Sri Lanka trong đồng phục trắng tinh đang đi kinh hành tụng niệm nhẹ nhàng.

Đoàn chúng tôi tới cội Ananda Bodhi tree, đi diễu ba vòng và toạ ngồi dưới cây tụng kinh và thiền định.Sau đó, chúng tôi đi kinh hành tới thăm tịnh xá cuả Đức Phật, lễ lạy và thiền định. Nơi đây đức Phật và tăng đoàn của Ngài đã trú ngụ rất nhiêu năm. Tại đây Đức Phật đã giảng nhiều bài kinh quan trong, như Kinh A Di Đà. Phật tử hành hương trải hoa đầy trên nền để dâng lên lòng tri ân với Ngài. Gần nơi tịnh xá của Đức Phật là tịnh xá của Ngài Ananda. Trước bên kia là một giếng nước khá to, mặt giếng được rào kín. Phần lớn các thánh địa bị Hồi quân tàn phá, chỉ còn nền gạch trơ truị thôi.

Nói chung nơi các vườn của tăng đoàn thới bấy giờ có nhiều toạ cụ xây bằng gạch đỏ, chắc để cać đại đệ tử ngồi thiền hoặc để thuyết pháp giảng luận với quần chúng. Sau đó chúng tôi đi thăm ngôi nhà của Ngài Cấp Cô Độc. Bây giờ chỉ còn là nền nhưng vẫn còn vẻ đồ sộ. Dưới nền nhà là hai hố sâu, đó là nơi Ngài chứa các đồng tiền vàng dùng để rải kín vườn mua lại của vua để làm tịnh xá cho Phật và tăng đoàn.

Trở lại nơi cội bồ đề do Ngài Ananda trồng để tưởng nhớ tới Đức Phật một khi Đức Phật đi giảng Pháp nơi xa.Trong lúc đoàn chúng tôi ngồi tụng kinh và thiền định có xảy ra hai sự kiện khác thường. Sự kiện này, một là do chính tôi chứng kiến và quan sát. Một là xảy ra ngay cho ông bạn đồng hành.

Trên đường phố, trong công viên Ấn Độ, có nhiều súc vật như chó, heo, dê, bò trâu, gà...sống lẫn lộn với người dân một cách hiền hoà như một đại gia đình.

Khi bước tới cội cây bồ đề, tôi có thấy vài chú chó lảng vảng trong đó. Sau khi hết tụng kinh và bắt đầu thiền định, tôi thấy một con chó đen, có vài điểm lông trắng, rong ruổi bước tới trước hàng ngồi của sáu phật tử hàng sau cùng. Trong đó có tôi ngồi chính giữa. Anh chó này đến qùy hai chân sau, trước một Phật tử ngồi bên trái của tôi. Anh ấy lấy tay trước khều mặt cô lấy sự chú ý, rồi để tay của anh lên tay lòng bàn tay trái của cô một vài giây lâu, sau đó anh ta đổi sang tay phải thiền vài giây với cô ta. Vẻ mặt của anh chó này rất là hiền từ và sống động lắm. Anh chuyển sang một Phật tử cuối hàng ,dừng đó không lâu rồi trở lại nơi bà ngồi bên cạnh bên phải tôi. Bà này là mẹ của cô ngồi bên trái lúc nãy. Anh chó tới trước bà, cúi đầu kính cẩn, dung mạo rất thuần thục,bà vuốt mặt anh, cầm tay anh chú niệm vài giây nữa. Anh lại đi ngang tôi, không dừng mà tiến tới cô nơi đầu hàng và cũng ngồi thiền một chút rồi đi ra ngoài.

Các bạn nghĩ thế nào? Có phài đây là một luân hồi dữ kiện hay một ESP giữa vật và người?

Trong khoảng thời gian thiền này, phiá hàng đầu tiên là nơi ông bạn đang ngồi. Sau này anh ấy kể lại trên xe cho cả mọi người cùng chia xẻ kinh nghiệm hiếm có. Là khi đang chăm chú thiền định, anh thấy trước mặt một bình bát đầy nước, trên mặt nước có bọt váng bèo lăn tăn. Váng bèo này từ từ tan đi, còn lại các hột như hột tiêu đen rồi dần dần các hột này lắng xuông tan đi mất và nước trở thành trong. Cùng lúc đó, anh càm thấy mặt đất rung động như có động đất xảy ra dưới chỗ ngồi. Khi ấy Thầy giải thiền. Anh kể là anh rất lơ là do dự, không muốn đi chuyến hành hương này lắm, nhưng bị tôi thúc đẩy, sau cùng thu xếp công việc nhà êm thắm nên mới đi được.Tiếp tục cuộc hành trình sau khi rời sông Hằng. Chúng tôi lên xe lửa đi về phía bắc của Ấn Độ nơi Tứ Động Tâm mà người con Phật có duyên mới tới được.

Qủa vậy, muốn đến nơi đó, từ thành Xá Vệ, chúng tôi phải đi xe lửa vào buổi tối, ngủ đêm trên tàu. Chuyện ngủ trên tàu không phải là trở ngại. Khi đã lên trên băng và có giường ngủ là yên trí. Khổ ải là đi bộ từ ngoài đường vào nhà ga trong bóng tối không đèn sáng, lo cho hành lý chuyển lên tàu hoàn tất. Có vài vị mang theo đèn pin và chúng tôi lại phải chăm chú không dẫm lên phân uế. Chuyến xe lửa dài khoảng 10 tiếng đồng hồ. Thầy Tánh Tuệ, vị La Ma và Ni Cô cùng người tour guide lo hết mình cho chúng tôi được an tòan. Các người Ấn lao động khuân vác hành lý cũng rất đắc lực vì đó là công việc quen của họ. Trông vậy chứ cái cổ gà gầy gò của họ có một sức mạnh khuân vác rất hay. Tới sáng chúng tôi vào khách sạn để thay quần áo,ăn sáng và nghỉ ngơi vài giờ. Tôi phải lấy khăn uớt lau va li đầy bụi đường trước khi mở lấy quần áo ra thay.

Ngay hôm sau sáng sớm chúng tôi lên đường bằng tour bus về hướng Lumbini, nơi Đức Phật đản sanh. Chuyến xe bus đường trường rất dài. Qua nhiều làng phố tiêu tàn bui bậm, bùn lầy. Người dân phế thải tự nhiên bất cứ chỗ nào, không cần che dậy.Người dân Ấn Độ không hề được chính phủ lo cho đầy đủ kể cảnhững phương tiện căn bản về nhân bản của con người.

Đường xá, cầu qua sông rất hẹp. Những con đường vá víu, lồi lõm,hàng quán nhô nhấp. Thế mà chúng tôi không quan tâm, không hề lo sợ tai nạn xảy ra. Vì mỗi ngày trên xe, chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình bằng tụng Chú Đại Bi. Vì̀ Thầy cùng Phật Tử sinh hoạt ca hát, chuyện trò nên quên không để ý bên ngoài đường. Có khi chúng tôi chứng kiến hai xe đi ngược dòng, tửơng đâm đầu vào nhau thế mà tài xế họ lách qua như không có chuyện chi. Chúng tôi chỉ biết thở phào. Quả dân Ấn lái xe lão luyện. Cả một cuôc hành trình không hề thấy một tai nạn xảy ra dù cho xe lớn hay nhỏ, hay người bộ hành, xe đạp.Tất cả được tôn trọng trong khoảng cách của họ khi di chuyển trong thành phố. Cả những con lừa, con bò, và trâu hay dê, cùng khách bộ hành ung dung đi lại, các xe lớn sẽ tránh không đụng tới họ. Anh tài xế tour bus của chúng tôi luôn luôn bấm còi cho chắc ăn.

 

Có nhiều chặng trên đường mùi khai nồng của phố xá quyện thêm mùi bụi tung lên hai bên đường vẫn lọt vào xe qua khe cưả sổ.Chúng tôi ngó qua cửa xe thăm quan. Nhà cửa tệ hại, chỉ là các mảnh gỗ, mái tranh, vải vóc vụn vá víu che đậy. Cónhà xây bằng gạch nhưng chỉ là bốn bức tường trống rỗng. Vì quá nghèo, không đủ vật dụng xây cất, nên các nơi thờ phượng và các tượng của họ cũng rất thô sơ, trông thảm não. Cả làng mới có một giếng nước. Vách tường được bao phủ bằng các bánh phân bò, một phương cách phơi khô. Họ dùng phân bò để thay cuỉ nên có khi cơm hay thức ăn có mùi này. Có nơi các súc vật như heo rừng, trâu bò, dê, chó xúm quanh các ổ rác moi móc. Không hiểu rác ở Ấn Độ có còn gì để mà moi nữa. Dân tìnḥ sống chung với súc vật và rác như một đại gia đình. Và đôi khi trên cạnh đống rác, một em trai nằm quay ra ngủ êm ru. Hoặc có nơi một xác chết của một người đàn ông khô cằn, một chân co rúm lên không. Có lúc không thể chịu được tôi phải kéo màn cửa xe để khỏi nhìn thấy quang cảnh chật vật của người Ấn. Họ cũng từng là người đồng hương với Đức Phật, hoặc biết đâu họ cũng từng là bà con của mình đời kiếp trước chăng? Phải chăng người Ấn Độ chịu đựng số phận của họ vì những người Bà La Môn cao tộc phán cho họ rằng đó là nhân quả họ phài chịu vậy cho hết kiếp? Vì thế họ bình thản sống qua ngày, không còn cái khổ nào làm họ khổ hơn nữa. Thật phải công nhận người Ấn có một tâm linh siêu thực.

Suy nghĩ lại, trong Kinh Phật giảng phải quán các giác quan của mình, tất cả chỉ do thọ và tưởng mà ra. Tất cả sẽ qua đi, và trở thành KHÔNG. Có gì mà lo, mà sợ, mà vương vấn? Tôi sực nhớ lại một buổi thiền trong chùa bên USA nơi tôi hay tham dự,một vị ni cô chạy xuống bếp vặn quạt lên thật mạnh để xua mùi chiên của tempura vì sợ làm phiền đến các thiền sĩ trên chánh điện.

Chúng tôi tới Kushinagar đảnh lễ Đức Phật, nơi ngài nhập Đại Niết Bàn. Hoa sen và y trang sẵn sàng, chúng tôi sắp hàng hai, kính cẩn bước vào trong điện, đắp y lên bức tượng nằm của Ngài, rồi diễu ba vòng quanh tượng, niệm Nam Mô Thích Ca Bổn Sư Mâu Ni Phật. Trong cùng lúc đó có nhóm các vị sư Tây Tạng, nhóm Phật tử Đại Hàn (?), ba là nhóm chúng tôi, đồng quỳ dưới sàn. Trong cùng một lúc tất cả mọi người đều tụng danh hiệu Ngài, tiếng hùng dũng của các sư tây Tạng, cùng nhị̣p điệu trầm bổng của tiếng Đại Hàn và tiếng chuông, khánh của VN. Tất cả hoà hợp thành một âm thanh của bi, trí, dũng càng lúc càng to rồi chấm dứt.

 

Ngay lúc này tôi cảm thấy có một yên tĩnh tuyệt đối, tuyệt diệu. Các nhà sư Tây Tạng giảng đó là một hoà hợp tột đỉnh của âm thanh và tính "không", một trạng thái quân bình, equanimity, vi tế.Chúng tôi thay nhau đảnh lễ Ngài lần cuối, mắt ai không nhoà lệ? Một Người Cha nằm đó, bao con thương nhớ. Ngài chắc cũng biết các con thương kính lòng từ bi của Ngài, muốn về chung nơi Ngài ngự, nhưng sao chúng con còn trầm luân mãi mãi nơi chốn ta bà này? Sau đó chúng tôi đi thăm khu vườn xung quanh. Hai cây Sa La còn đó, nhưng muà này không có hoa tuy rất xanh lá.

Những cảm xúc nơi đấy đã được làm nhẹ bớt khi chúng tôi tới nơi Đức Phật đản sanh. Trong đó là một ngôi nhà bảo tồn di tích dấu chân đức Phật. Cây Vô Ưu khi mẹ đức Phật tưạ dưới đã được Ấn Độ tặng cho Nhật Bổn. Bến ngoài là một cột trụ do vua Ashoka xây dựng để tôn công đức của Đức Phật. Chúng tôi lưu lại đây một ít lâu, mỗi người tìm một vị trí để thiền định dưới các cội bồ đề. Ngoài nhóm chúng tôi, có vài nhóm của người Thái, SriLanka, cũng tới bao quanh cột trụ tụng kinh và nghe Sư Tăng của họ giàng Pháp.

Thầy Tánh Tuệ hướng dẫn chúng tôi thăm viếng một vài ngôi chùa VN gần đó. Chùa Linh Sơn sẽ khánh thành tháng 11 2012 và sẽ thỉnh Phật Ngọc về đó nữa. Trên đường hướng về Bồ Đề Đạo Tràng, chúng tôi ngủ đêm tại chùa Kiều Đàm của các ni cô từ VN sang tu tập. Một công trình xây cất rất bao la, kiên cố, có tháp cao, tường đá khắc Kinh DP Liên Hoa. Phần lớn nhân công là những anh Việt Nam sang làm với thời hạn tiêu chuẩn 3 tháng visa. Ngày khánh thành cũng khoảng tháng 11 năm 2012. Chuà VN Quốc Tự khá uy nghi và có nhiều đặc tính VN, với vườn trúc, các tượng voi, hạc, nai, lối đi quanh co...

Tiếp tục hành trình, nơi chúng tôi dừng chân hai ngày gần nuí Linh Thứu. Sáng sớm chúng tôi lên xe hết gần 10 phut. Đừơng lên núi được sửa sang với các cấp bậc thang thoai thoải khá dài. Vậy mà chúng tôi phải dùng gậy leo lên, và dừng chân hai lần trước khi lên tới đỉnh. Trên đường lên cao, các bạn thấy hình một tảng đá chơi vơi trên núi có hình mỏ chim, giaỉ thích sao gọi nuí là Linh Thứu. Mặt trời đã bắt đầu lên cao. Chúng tôi dâng hoa, quì lạy và tụng kinh. Sau đó chúng tôi tìm một chỗ ngồi tụm lại thực tập thiền 10 phút. Núi Linh Thứu nơi Đức Phật giảng một bộ kinh Đại Thừa, một tiếng rống của Sư Tử, cho các vị Bồ Tát biết rằng các vị nên tu thành qủa Phật: Vì ai cũng có Phật tính tự nhiên. Đó là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà chúng ta tụng hằng ngày ngày nay và kế tiếp mãi mãi.

Vì kinh nghiệm trước, anh hướng dẫn du lịch đã mua bưởi đem lên núi trước. Trời bắt đầu nóng hơn lên, chúng tôi bóc bưởi ăn giải khát. Mọi người thích thú, nhưng chỉ thiếu ít muối ớt. Lúc xuống núi chúng tôi dừng lại để thăm hai hang động của Ngài Xá Lợi Phật và Ngài A Nan Đà. Hai bên đường đã đầy các người ăn xin. Để ý tôi thấy phần lớn là các bà già nua trong sarhi lê lết ngửa tay xin tiền. Các bạn mến, không sao đâu, các bạn mủi lòng thương xót cho họ một tờ 10 rupee túi tiền của bạn chẳng vơi đi là bao. Ngày hôm sau sớm hơn hôm trước. Thầy dẫn chúng tôi trở lại núi một lần nữa. Tôi vì mệt nên xin ở lại hotel. Lên xe bus tiếp tục xem các di tích khác vảo buổi trưa Chúng tôi đi tới thăm nơi Đức Phật tu khổ hạnh 6 năm. Tuy gọi là Rừng Khổ Hạnh, nhưng thực ra động ở trên cao, nơi đây có hai động nhỏ sát nhau. Bên trong có hai tượng, một tượng khổ hạnh và một tượng ngồi thiền. Đường lên nuí khá dốc, một em Ấn phụ đẩy sau lưng cho tôi leo lên. Lúc xuống núi cũng em này phụ một tay cho tôi đi xuống. Các em dịch vụ du khách một cách vui vẻ hồn nhiên. Thực ra người Ấn Độ có bản chất bất bạo động. Để ý xem khi nào bạn thấy họ ngoắc ngoắc cái đầu. Ai không biết cho họ là negative. Nhưng ngược lại, đó là cử chỉ đồng ý, đồng tình với người đối thoại hay giao dịch. Nơi đây cũng là nơi rất nhiều ăn xin, họ tranh dành nên phải cẩn thận. Các em mù loà, hai tay đánh trống, miệng tụng Nam Mô A Di Đà Phật hay là Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Thật tội nghiệp. Mong sao các em kiếp sau được sinh nơi cõi an lành hơn.

Đi hành hương mà không thăm NaLanDa, việng đại học cổ thì uổng lắm. Nghe nói Viện đại học nay đang được khai quật thêm lên. Thật là một công trình vĩ đại có quy củ. Chứng tỏ một thời vàng son của Giáo Pháp, nơi các vị mười phương tới tìm và học đạo bao thế kỷ sau khi Phật nhập Đại Niết Bàn.

Tới hotel nơi Bồ Đề đạo Tràng sau khi ăn trưa và nghỉ ngơi, Thầy cho chúng tôi đi tour, thăm thành phố, thăm một vài ngôi chùa xung quanh như nơi có tượng Phật ngồi thiền cao nhất của Nhật Bản; chung quanh là các tượng đứng của 10 đại đệ tử của Ngài. Một trong những chùa khá rộng và thanh lịch là chùa thờ Ngài Huyền Trang của China. Chúng tôi cũng đến thăm chùa chính của Tây Tạng, nơi Ngài DaLaiLaMa và Ngài Kamarpa 17th mỗi năm khoảng tháng 11 về hội để lễ Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng và giảng Pháp. Có khoảng gần 100 cậu bé, phần lớn là người Nepal đang được tu học tại đây. Các cậu trong áo cà sa đỏ, đứng xếp hàng ngoài vườn và hân hoan nhận cúng dường của Phật Tử trong đoàn. Với tờ giấy mới tinh, họ cḥay đi mua kẹo trong khu vực sinh hoạt của chuà. Thật ngây thơ và dễ thương. Tới giờ tụ tập trong chánh điện, các cậu ai nấy ngồi vào vị trí của mình trước kệ sách kinh. Thầy Tánh Tuệ nhẹ nhàng đến từng người phát quà cho các em. Đối với họ, Thầy như một người anh trong nhà.

Trong ba ngày kế tiếp đoàn chúng tôi sinh hoạt sáng và tối tại Bồ Đề ĐạoTràng. Tuy có thể đi bộ từ khách sạn tới đây, nhưng vì trời nóng bức, bụi bậm, đường xá khó đi, chúng tôi đi bằng tour bus, hoặc xe lam, xe xich lô cho tiện. Trước khi vào cổng, chúng tôi phải để giầy dép bên ngoài. Vì biết trước, phần lớn chúng tôi mang vớ cho sạch chân.

Bên trong BĐĐT tuy có vẻ tấp nập nhưng hoàn toàn thanh tịnh.Tháp toà nơi có tượng Phật hiện đang được chính phủ Ấn bổ túc thêm trên từng cao nhất. Nơi đây, mỗi sáng các đoàn hành hương dâng hoa tươi như hoa nhài, hoa vạn thọ, hoa sen, và dâng y lên Ngài Bổn Sư Thích Ca. Khi một phái đoàn dâng y, vị sư trụ trì tại đó sẽ đắp y ngay lên tượng Phật cho họ chứng kiến. Cứ sau khi được 10 lớp y, thì vị trụ trì sẽ mang xuống và người nào muốn thỉnh một bộ về nhà chỉ phải trả một lệ phí rất khiêm nhường, hoặc tuỳ hỉ cúng dường. 

Tượng Phật Ngoc̣ Hòa Bình được tạc theo tiêu chuẩn của tượng tại BĐĐT. Nhưng khi bạn đứng tại đây, ngắm nhìn chân dung Ngài bạn sẽ cảm thấy không một tượng nào so sánh với tượng này được. Chỉ có một không hai mà thôi. Truyền rằng khi Ngài Ashoka xây tháp dâng Phật, dân làng thời bấy giờ muốn có một tượng của Ngài để thờ phượng bên trong. Họ dao truyền để tuyển người có tài giỏi nhất khắc tượng làm sao có thể biểu lộ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp của Đức Phật cho mọi người hướng về Phật tổ. Tự đâu có một điêu khắc gia nhận đứng ra nhận trách vụ này với điều kiện là không ai được xem công việc tạc tượng trong 3 tháng làm việc trong phòng kín. Sau hơn hai tháng nóng lòng, dân làng vì không kiên nhẫn tới tháp tông cửa vào, người tạc tượng đã biến mất. Tượng chưa hoàn toàn xong...Truyền rằng người điêu khác gia đó là Ngài Di Lặc, Matreya. Đứng dưới chân tượng, ngó lên, bạn sẽ cảm nhận ánh sáng từ bi của hai đôi mắt trong xanh cúi xuống trần khổ ải. Mũi thẳng cân đối với khuôn mặt không tròn, không dài. Miệng mỉm cười với vẻ bao dung.

Xung quanh tháp có khắc nhiều hình các tượng đủ hình thức, to, nhỏ,đứng ngồi v.v. Bên ngoài có một tượng của Ngài Avalokiteshvara, hay còn gọi là Quán Thế Âm, nơi nhiều người cho rất linh thiêng. Có tượng được nhiều người cúng lạy và dâng hoa hơn các chỗ khác. Chỉ là do truyền khẩu và lòng tin nên phân biện. Theo tôi nghĩ Phật nào cũng chỉ là một Phật mà thôi. Phật tự trong tâm, chỉ đợi đúng duyên đúng lúc là phát lộ, cứu mình và cưú chúng sinh.

Trong buổi sáng mát mẻ, các đoàn hành hương tự tìm chỗ tụ nhau lễ lạy và tụng kinh, ngồi thiền. Tiếng tụng kinh của nhiều thứ tiếng không còn có sự phân biệt trong cùng một âm thanh của từ bi, của tâm thành hướng về Đức Bổn Sư Thích Ca. Nhưng có một âm thanh vang lừng cao hơn cả là của ngàn con chim sẻ trên cội Bồ Đề líu lo ca tụng đức Thế Tôn. Chúng đến để chào mừng ca hát cho Ngài và tất cả hiện diện nơi BĐĐT.

Đoàn chúng tôi, được sự sắp xếp của Thầy Tánh Tuệ, mỗi người cầm 10 phong bì dựng rupees. Chúng tôi từng ngườì tự cúng dường các vị tăng ni đang tu tập chung quanh đạo tràng. Có vaì vị Phật Tử thấy còn thiếu, ngày hôm sau họ tự nguyện trở lại và cúng dường thêm. Trong thời gian này một đoàn Tăng của Tay Tang liên tục cầu nguyện cho hoa bình thế giới. Có thể họ tiếp tục thay nhau tụng liên tiếp trong một thời gian dài. Bên ngoài rìa các sư giả cũng khoác aó đỏ, vàng lảng vảng xin tiền.

Trong ngày, các bạn sẽ thấy có nhiều đoàn hành hương của người Hindu tới thăm. Họ đi ngay hàng, ghé vào nơi tượng Phật chính, tay họ chạm đỉnh đầu, rồi chạm xuống đất, một cử chỉ kính trọng trước một vị Thần. Sau đó họ ra hồ để nhúng chân gần đó. Hồ này là nơi Đức Phật khi thiền gặp một cơn bão, Naga một rắn thần lấy thân quấn lấy ngài để khỏi bị ướt. Theo như Thầy Tánh Tuệ nói, Đức Phật là vị thần thứ 9 của Ấn Giáo. Thật chớ trêu, họ chỉ cho Đức Phật là vị Thần, mà không để tâm theo Giáo Pháp của Ngài. Chỉ 2.7 phần trăm người Ấn theo Đạo Phật mà thôi.

Một trong những buổi sáng đó, dưới cội bồ đề, một hay hai vị Phật Tử nữ của một đoàn VN khác xuống tóc quy y tại đây. Trong giờ ăn trưa nơi đây vắng bớt nhưng cũng là lúc bạn có thể ngồi nghỉ chân bên dưới gốc Bồ Đề, hưởng khí mát của cây tỏa ra. Thinh thoang những con chim rào rạc cành làm rụng một chiếc lá, đó là điềm lành cho ai nhặt được.

Buổi tối tại BĐĐT chúng tôi tham dự hoa đăng, mỗi người cầm nến xếp hàng đi diễu xung quanh tháp. Lúc này đèn thắp sáng khắp nơi. Đến 9 giờ tối Đạo Tràng đóng cửa, chỉ còn lại những nhà tu sinh hoạt bên trong cho tới 4 giờ sáng hôm sau.

Ba ngày trong BĐĐT đã giúp đoàn chúng tôi dưỡng sức, sửa soạn chuyến xe lưả lần nữa về New Dheli .

Chỉ còn một ngày nữa là ra phi trường, Thầy Tánh Tuệ dẫn chúng tôi đi xem một ngôi đền mới, một kỳ công rất rộng lớn, tốn cả nhiều tỉ đô la. Có thể coi đây như là điện Versailles của Pháp. Đó là đền Bhagwan Swaminarayan AkshardhaM. Họ thờ một vị thánh đắc đạo thời 1781-1830 CE. Trong đền này, bạn được hướng dẫn đi thuyền như cảnh trong Disneyland để biết tiểu sử của vị này. Vé vào cửa khá đắt so với cuộc sống của dân Ấn. Tôi thầm hỏi không biết dân nghèo Ấn bao giờ mới được vào tới đây, thăm vị thần thứ 10 của họ?

Chiều tối ra phi trường, qua khỏi quan thuế, vô bên trong chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Tới phi trường S Korea mọi người được vài tiếng đồng hồ duỗi tay chân, nghỉ ngơi, thưởng thức món ăn Đại Hàn trước khi lên máy bay. Quả thật, thiên đường và địa ngục chỉ cách nhau một ngày bay.

Nước Ấn Độ, theo KM nghĩ, luôn luôn là nơi các Bồ Tát xuống trần để tu lần cuối giáo độ và làm gương cho các chúng sinh trước khi thành Phật.

Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha

Chúc các bạn ngày an lành, đêm an lành.

Kim/Diêu Ngoc - October 2010