Điều đặc biệt đối với Phật Giáo là Đức Phật cho chúng ta sự
tự do để đặt câu hỏi đối với những ngôn từ của chính Ngài. Đức Phật đã nói một
cách rõ ràng rằng tất cả những Tì kheo và người thông tuệ nên thẩm tra những
ngôn từ của Ngài giống như một người thợ kim hoàn kiểm tra vàng bằng việc đánh
bóng, cắt gọt, và đặt nó trong lửa. Ngài yêu cầu mọi người không được chấp nhận
những giáo huấn của Ngài hoàn toàn từ niềm tin.
- Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là
một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích.
Vì thế, khảo sát là rất cần yếu.
- Nhằm thực hiện một sự khảo sát để chuyển hóa tâm thức,
chúng ta cần một thái độ hoài nghi. Chúng ta không chỉ chấp nhận các vấn đề
trong một niềm tin mù quáng. Chủ nghĩa hoài nghi đưa đến những câu hỏi, và câu
hỏi kêu gọi một sự khảo sát.
- Sự khảo sát bằng thiền quán phân tích và qua đấy chúng ta
đạt đến một sự tỉnh thức trong sáng hơn: một hình ảnh trong sáng hơn của thực tại.
Điều này phát sinh sự thuyết phục vững chắc. Chỉ qua sự thuyết phục vững chắc
mà sự chuyển hóa tinh thần có thể xãy ra.
- Cái đầu hay bộ óc chúng ta giống như một phòng thí nghiệm.
Sự thông tuệ của con người là đặc biệt và khác biệt với những chủng loại có vú
khác. Sự thông tuệ như thế là một khí cụ. Vì thế, trong phòng thí nghiệm của
não bộ, sự thông tuệ của con người hay khả năng thông thái được sử dụng như một
khí cụ để thẩm tra những cảm xúc khác nhau, và rồi thì tiến hành những sự thể
nghiệm trên một cấp độ cảm xúc. Điều này có thể làm cho chúng ta chuyển hóa những
cảm xúc của chúng ta.
- Theo một số nhà khoa học, cảm xúc không nhất thiết là
tiêu cực. Cảm xúc là một cảm nhận rất mạnh mẽ. Trong khi một số cảm xúc là tàn
phá, thì những cảm xúc khác là xây dựng. Trong một gặp gở với những nhà khoa học,
chúng tôi đã kết luận rằng có những cảm xúc ngay cả trong tâm của Đức Phật. Có
một cảm giác mạnh mẽ của việc quan tâm và từ bi và cũng là sự thân chứng tính
không.
- Lúc ban đầu, chỉ có một cảm nhận mơ hồ của tính không. Tại
một trình độ, không có cảm xúc, nhưng một khi chúng ta trở nên quen thuộc hơn với
tính không, rồi thì cảm nhận ấy sẽ tăng lên. Tại một trình độ nào đó, sự thân
chứng tính không cũng trở thành một loại cảm xúc. Do vậy, trong sự thực hành
phát triển tuệ trí và yêu thương ân cần / từ bi, chúng ta sẽ làm mạnh lên những
phẩm chất nội tại và rồi thì đạt đến một thể trạng nơi mà chúng ta có một đợt bộc
phát của cảm giác gọi là cảm xúc. Chúng ta có thể thấy một cách rõ ràng sự nối
kết này giữa thông tuệ và cảm xúc. Thế nên, não bộ và trái tim có thể đi bên cạnh
nhau. Tôi nghĩ đây là sự tiếp cận của Đạo Phật.
- Điều đặc biệt đối với Phật Giáo là Đức Phật cho chúng ta
sự tự do để đặt câu hỏi đối với những ngôn từ của chính Ngài. Đức Phật đã nói một
cách rõ ràng rằng tất cả những Tì kheo và người thông tuệ nên thẩm tra những
ngôn từ của Ngài giống như một người thợ kim hoàn kiểm tra vàng bằng việc đánh
bóng, cắt gọt, và đặt nó trong lửa. Ngài yêu cầu mọi người không được chấp nhận
những giáo huấn của Ngài hoàn toàn từ niềm tin.
- Có hai khía cạnh đối với tôn giáo: một là sự rèn luyện
tâm thức, và thứ đến là triết lý. Trong dạng thức của sự rèn luyện tâm thức, tất
cả những tôn giáo quan trọng là giống nhau. Tất cả cùng có khả năng giống nhau
để chuyển hóa tâm thức con người. Một sự biểu hiện rõ ràng của điều này là tất
cả những truyền thống tôn giáo quan trọng chứa đựng thông điệp của từ ái, bi mẫn,
tha thứ, toại nguyện, và kỷ luật tự giác. Thông điệp là giống nhau, nhưng trong
một số trường hợp, ý nghĩa có thể hơi khác nhau do bởi triết lý của họ khác
nhau.
- Có thể có những sự khác biệt quan trọng trong triết lý của
những tôn giáo khác nhau nhưng chúng ta không thể nói rằng tôn giáo này tốt hơn
tôn giáo kia. Tất cả có cùng khả năng để chuyển hóa tâm thức. Tuy thế, mỗi
chúng ta có một thiên hướng tinh thần khác nhau. Vì thế, chúng ta thấy có nhiều
phương pháp khác nhau để tiếp cận. Tuy vậy, kết quả hay tác dụng là giống nhau
nhiều hơn hay ít hơn.
- Do vậy, chúng ta không thể nói rằng tôn giáo này hay tôn
giáo kia là tốt hơn. Một thái độ như vậy cho phép chúng ta phát triển sự tôn trọng
đối với những truyền thống tôn giáo quan trọng khác. Hàng triệu người đã từng được
truyền linh cảm bởi những truyền thống khác nhau trong quá khứ. Nó có thể giúp
họ hướng đến một đời sống đầy đủ ý nghĩa. Trong tương lai, hàng triệu người sẽ
tiếp tục được truyền cảm hứng và, như một kết quả, đời sống của họ cũng sẽ trở
nên đầy đủ ý nghĩa hơn và tràn đầy với từ bi. Tuy thế, về phía triết lý chúng
ta có thể nói rằng triết lý này là phức tạp hơn hay triết lý nọ là đơn giản hơn.
- Trong người Phật Giáo, chúng tôi nói về bốn pháp ấn hay bốn
chân lý của Đạo Phật. Đây là:
1- Tất cả những hiện tượng do duyên sinh là vô thường (chư
hành vô thường);
2- Tất cả những hiện tượng nhiễm ô là khổ đau (nhất thiết
hành khổ);
3- Tất cả những hiện tượng là vô ngã và trống không (chư
pháp vô ngã);
4- Niết bàn là hòa bình (niết bàn tịch tĩnh).
- Trong trường hợp của những đối tượng chẳng hạn như vô thường
hay vô ngã, chúng có thể được lĩnh hội và nhận thức bởi tâm thức, nhưng đồng thời,
không có một sự tồn tại được làm cho có thể từ phía chính chúng, [chúng vốn là
vô tự tánh].
- Tất cả những hiện tượng hiện hữu có thể được phân biệt
thành hai đặc trưng: những hiện tượng hiện hữu và những đối tượng không hiện hữu.
Khi chúng ta nói về một đối tướng hiện hữu, nó được quyết định trong ý nghĩa rằng
có một ý thức thấu hiểu nó, nhận thức nó. Trong trường hợp của một đối tượng
không hiện hữu, nó là điều gì đấy không thể nhận thức hay lĩnh hội bằng bất cứ
loại ý thức nào.
- Trong vũ trụ của tâm thức, cho dù đấy là một tâm thức
tiêu cực hay tích cực, một cảm xúc tích cực hay tiêu cực, trong cả hai trường hợp,
có hai nhân chính. Đây là, thứ nhất, nhân bản thể đáp ứng cho sự sản sinh thực
thể của chính bản chất tự nhiên của tâm thức, và thứ hai, nhân phối hợp, hay
nhân phụ là một loại nhân tố gián tiếp tạo điều kiện cho một loại tâm thức có cơ
hội sinh khởi.
- Một cách căn bản, có hai cấp độ của ý nghĩa vô thường: vô
thường trong cấp độ thô, và vô thường trong bản chất tự nhiên vi tế hơn của hiện
hữu. Cấp độ thô hơn của vô thường liên hệ đến những thể trạng nhất thời của một
đối tượng trong ý nghĩa hoại diệt đối với sự tương tục của nó. Khi chúng ta nói
về vô thường vi tế, nó có ý nghĩa trong sự hoại diệt nhất thời hơn là trong dạng
thức tương tục của nó.
- Bất cứ nguyên nhân nào mà nó là một kẻ sản sinh ra một kết
quả, đến lượt nó, là một kết quả của chính nguyên nhân của nó. Sự chu biến là ở
đấy. Chu biến có nghĩa là tất cả những nguyên nhân sản sinh luôn luôn là kết quả
của chính những nguyên nhân của nó. Do thế, mối quan hệ nguyên nhân/ hệ quả hay
luật nhân quả là một vòng tương tục.
- Khi chúng ta nói tất cả mọi thứ nhiễm ô là khổ đau, chúng
ta muốn nói những đối tượng đó hoặc là được sản sinh bởi những cảm xúc phiền
não hay lệ thuộc trên chúng.
- Để thấu hiểu tất cả những hiện tượng nhiễm ô là khổ đau
trong bản chất, chúng ta phải thấu hiểu ba trình độ của khổ đau. Thứ nhất là khổ
đau của khổ đau (khổ khổ), rồi thì khổ đau của thay đổi (hoại khổ), và cuối
cùng đó là khổ đau điều kiện hóa cùng khắp (hành khổ). Khi chúng ta nói về tất
cả những hiện tượng như khổ đau, chúng ta liên hệ đến trình độ thứ ba của khổ
đau: khổ đau điều kiện hóa cùng khắp. Điều này hoạt động như nền tảng cho hai
trình độ khổ đau kia.
- Sự kiện đơn thuần của việc lệ thuộc trên nguyên nhân và
điều kiện để phát sinh ra những cảm xúc phiền não. Theo định nghĩa, những thứ
đó ở trong bản chất của khổ đau.
- Chúng tôi muốn nêu ra gì khi nói rằng tất cả những hiện tượng
là trống rỗng và vô ngã? Có những quan điểm bất đồng về điều này trong bốn trường
phái tư tưởng của Đạo Phật. Ý nghĩa của vô ngã được chấp nhận chung trong tất cả
những trường phái tư tưởng Phật Giáo (ngoại trừ một ít nhóm trong những phân
phái của Tỳ Bà Sa Luận Bộ) là sự vắng bóng của một con người độc lập và tồn tại
một cách thực chất.
- Những trường phái chấp nhận con người như tồn tại độc lập
về thực chất cũng thừa nhận rằng có một loại linh hồn hiện hữu riêng biệt với
những tập hợp uẩn và tinh thần (thân và tâm). Họ thêm rằng loại linh hồn này
hay con người đến từ kiếp trước vào kiếp này và rồi sẽ tiếp tục đi đến kiếp
sau. Tất cả những trường phái Phật Giáo phủ nhận sự tồn tại của một tự ngã như
vậy.
- Trong đời sống hàng ngày của chúng ta, nhiều tư tưởng
phóng túng, quấy rầy, tiêu cực sinh khởi bởi vì bốn loại nhận thức sai lầm. Thứ
nhất, chúng ta có khuynh hướng thấy những gì vô thường là thường; thứ hai,
chúng ta có khuynh hướng nhận thức những gì bất tịnh như thanh tịnh và như điều
gì đấy có một bản chất hay quan trọng; thứ ba, chúng ta có thiên hướng thấy những
con người vô ngã như có sự tự tồn tại; và thứ tư, chúng ta rất có thể xem những
gì trong bản chất khổ đau như một cội nguồn của hạnh phúc và hòa bình.
- Những người muốn nữa và thêm nữa, bất hạnh thay, luôn
luôn tiếp tục cố gắng để có thêm tài sản nhằm để sử dụng tài vật. Xa hơn nữa, họ
không bao giờ nghĩ về cái chết hay sự giới hạn của thân thể và đời sống của
chúng ta. Vì thế lối sống này, tích lũy tài sản một cách liên tục, làm cho
chúng ta cảm thấy giống như chúng ta chất chứa và tích lũy tài sản, như sự sống
của chúng ta sẽ không ngừng tiếp diễn mà không chạm trán với cái chết và chúng
ta sẽ có thể thụ hưởng sự giàu sang ấy mãi mãi.
- Khi chúng ta tiếp tục tích lũy sự giàu sang và những thứ
giành được mà không có sự toại nguyện, kết quả sẽ là gì? Chúng ta không thời
gian để thư giản thân thể vật lý hay sự hòa bình của tâm hồn. Tôi nghĩ rằng
nguyên nhân chính của việc chúng ta mong cầu sự giàu sang và quyền lực hơn là để
có một loại thõa mãn nào đấy. Ngoại trừ chúng ta có một thái độ tinh thần thích
đáng, không thì chúng ta chỉ đang tìm cầu cho một loại mãn nguyện nào đấy.
- Một khi chúng ta nhận ra rằng khổ đau chính là bản chất của
hiện hữu, nó sẽ giúp chúng ta giảm thiểu khao khát vô lý của chúng ta đối với mọi
thứ.
- Đức Phật đã thuyết giảng về Bốn Chân Lý Cao Quý. Nếu quý
vị thiền tập trên hai chân lý khổ đau và nguyên nhân của nó, sự băn khoăn và rầu
buồn của quý vị gia tăng. Nhưng quý vị thấy đấy, Đức Phật không dừng lại ở đấy.
Có hai chân lý nữa: sự chấm dứt khổ đau và con đường hay phương pháp để đạt đến
sự chấm dứt ấy. Đức Phật đã bắt đầu bằng giải thích rằng chính bản chất của sự
tồn tại là khổ đau, nhưng cùng lúc, Ngài cũng đã chỉ rằng có một sự thay đổi.
- Vậy thì mục tiêu chính của việc thiền quán trên khổ đau
là để trau dồi một lòng quyết tâm để đạt đến niết bàn. Nếu quả không có khả
năng để đạt đến niết bàn, thì tốt hơn là đừng nghĩ về khổ đau và thay vì thế chỉ
thoải mãi rượu chè, hay bất cứ thứ gì quý vị thích. Thế đó sẽ khá hơn nhiều.
Tuy nhiên, nếu có một sự thay đổi, một khẩ năng để loại trừ những tình trạng rắc
rối này của tâm thức và cảm xúc, thì thật sự đáng để thực hiện một nổ lực. Đó
là việc rèn luyện tâm thức như thế nào.
- Sự thực tập về từ bi, có ý thức về người khác, lợi lạc vô
biên cho chính chúng ta. Dĩ nhiên, cuối cùng, những chúng sinh khác cũng được lợi
ích. Do thế, Đại Sư Tông Khách Ba nói một cách đúng đắn rằng, khi chúng ta phát
triển từ bi và vị tha, sự tập trung chính yếu của chúng ta là làm lợi ích và
giúp đở người khác, nhưng đấy là quý vị, người thực hành, sẽ nhận được những lợi
lạc lớn lao nhất.
- Việc thực hành và thiền quán về từ ái và bi mẫn hoàn
thành mục tiêu cho đời sống của chúng ta và cho những chúng sinh khác. Sự thực
hành và thiền quán như vậy, những điều làm cho tâm thức chúng ta quen thuộc với
việc việc trau dồi từ ái và bi mẫn, không phải là điều gì đấy nên giới hạn chỉ
trong những người tín ngưỡng. Ngay cả những người không tín ngưỡng, thật cực kỳ
quan trọng để phát triển một thói quen và những phẩm chất tích cực như vậy của
tâm thức. Nó mang đến hạnh phúc cho chúng ta và hạnh phúc hay hòa bình cho những
chúng sinh khác. Nó liên hệ tương quan và phụ thuộc hoàn toàn trên việc phát
triển từ ái và bi mẫn.
- Thực hành từ bi, quan tâm đến người khác và chia sẻ những
rắc rối của họ, là đặt nền tảng cho một đời sống hạnh phúc không chỉ ở trình độ
cá nhân, hay cộng đồng mà cũng là cho toàn thể nhân loại. Vì thế, thúc đẩy những
giá trị căn bản này của nhân loại là rất quan trọng. Cũng thế, đấy là trách nhiệm
cho mỗi người bởi vì tương lai của nhân loại là hoàn toàn nằm trong tay chúng
ta.
- Như những người Phật tử, chúng ta tin tưởng trong cầu
nguyện, thiền tập, và sự gia hộ của các bậc cao siêu. Có những bậc cao siêu có
khả năng để gia hộ nhưng tác động giới hạn. Có vô số Chư Phật và Bồ Tát luôn
luôn cầu nguyện cho chúng ta, nhưng, tuy thế, điều kiện của chúng ta vẫn hoàn
toàn khó khăn. Chúng ta vẫn ở trong cõi luân hồi sinh tử. Vì thế tôi luôn luôn
nói với những người anh chị em của tôi rằng hành động là quan trọng hơn cầu nguyện.
Chúng ta phải thực hiện một nổ lực.
- Đôi khi, tôi nghĩ rằng nói về từ bi chỉ đơn thuần là phụng
sự bằng đôi môi. Tôi thật sự cảm phục những cá nhân hay đoàn thể nào liên hệ
trong việc giúp đở những người bần cùng và hoạt động trong lãnh vực giáo dục,
v.v... Những người này đang áp dụng từ bi trên một trình độ thực tiển. Tôi chỉ
ngồi đây trên một bảo tòa thoãi mái và nói về từ bi! Có lẽ đây là đạo đức giả.
- Hành động là rất quan trọng. Nhằm để có thể áp dụng một
hành động không mệt mõi, chúng ta cần một lòng quyết tâm kiên cố. Chúng ta phải
nên có một cái nhìn rõ ràng về mục tiêu của chúng ta. Điều này sẽ cho phép
chúng ta thực hiện một nổ lực tự nhiên và không mệt mõi. Nếu những mục tiêu
không rõ ràng, hay có một sự mờ mịt nào đấy, rồi thì những phương pháp chướng
ngại sẽ được sử dụng và điều này thậm chí sẽ tạo nên rối rắm hơn!
- Qua học hỏi những nhận thức triết lý Phật Giáo, chúng ta
có thể phát triển một lối mòn sáng tỏ trên bản đồ. Rồi thì chúng ta sẽ biết cất
bước như thế nào để đến nơi.
- Chỉ phấn đấu cho sự sống còn của chính mình là không đủ.
Những con voi có khả năng để sống còn. Tương tự thế, thú vật và côn trùng có một
loại bản năng cho sự tồn tại của chúng. Như là con người chúng ta có sự thông
minh kỳ diệu này. Sử dụng điều này cho sự tồn tại của một người là lãng phí.
Thay vì thế, đây là tặng phẩm của thông minh nên được dùng cho chủ nghĩa vị
tha. Rồi thì đời sống của chúng ta sẽ thật sự trở nên đầy đủ ý nghĩa.
- Theo quan điềm của Đạo Phật, đời sống của chúng ta trên
hành tinh này kéo dài tối đa là một trăm năm. Nó giống như một chuyến nghĩ hè
du lịch. Từ những chiều sâu của không gian huyền bí, chúng ta đến đây để ở lại
chỉ một trăm năm thôi. Khi chúng ta so sánh với hàng tỉ và hàng tỉ năm của ánh
sáng, chúng ta tồn tại một trăm năm là quá tầm thường!
- Sử dụng đời sống con người ngắn ngủi này để tạo thêm rắc
rối và khổ đau là vô lý và vô nghĩa. Nếu một khách du lịch người Âu hay Mỹ đến Ấn
Độ trong chỉ một tuần và trong thời gian ấy tạo nên rắc rối bất cứ nơi nào họ đến,
điều đó sẽ là vô vị và ngớ ngẫn. Tương tự thế, chúng ta đã đến hành tinh này
trong một cuộc viếng thăm ngắn ngủi, vì vậy lần này phải nên được sử dụng một
cách đầy đủ ý nghĩa. Điều này có nghĩa là giúp đở người khác bất cứ nơi nào có
thể. Nếu quý vị không thể hổ trợ người khác, thì đừng nên tạo đớn đau hay khổ sở
cho kẻ khác.
- Để phát sinh tâm giác ngộ, tôi muốn chúng ta đọc ba bài kệ
này ba lần cùng với nhau:
Với nguyện ước giải thoát tất cả chúng sinh
Con luôn luôn tiếp nhận quy y
Trong Phật, Pháp, và Tăng
Cho đến khi đạt được sự giác ngộ hoàn toàn
Được làm cho nhiệt tình bởi tuệ trí và từ bi
Hom nay trong sự hiện diện của Chư Phật
Con phát sinh tâm vì sự tỉnh thức hoàn toàn
Vì lợi ích của tất cả chúng sinh
Cho đến khi không gian còn hiện hữu
Cho đến khi chúng sinh còn tồn tại
Cho đến lúc ấy, con nguyện cũng sẽ hiện diện
Và xua tan những khổ đau của thế gian.
Những người muốn thực hành lòng vị tha (và, dĩ nhiên là những
Phật tử) phải nên đọc những điều này như một phần trong sự cầu nguyện hàng ngày
của họ. Chúng ta phải thiền quán trên những điều này, đặc biệt là bài kệ cuối.
Tất cả ba bài kệ này là một phần trong sự cầu nguyện và thiền quán hàng ngày của
tôi. Mỗi ngày, tôi lập lại và thiền quán trên những dòng này. Bài kệ chót rất
năng lực. Khi tôi gặp phải những tình cảnh không vui hay có những cảm xúc phiền
não tiêu cực, tôi nhớ lại điều này. Tôi lập lại và rồi quán chiếu. Điều này lập
tức khôi phục sự hòa bình trong tâm thức tôi. Rất hữu dụng. Ngay cả những người
không Phật tử có thể nghĩ về câu cuối cùng.
Trích từ bài The Four Seals in Buddhism của quyển Many Ways
to Nirvana
Ẩn Tâm Lộ ngày 19-01-2013