Legacy of the Buddha
The Universal Power of Buddhism
Di sản của Đức Phật Thế Tôn
Toàn lực của Phật giáo
By Sanghamitra Sharma – 2001
Phật Giáo Ấn Độ
Mahayana Buddhism - Phật giáo Đại thưà
Page 101
Các lý thuyết vào thời
kỳ hưng thịnh nhất của Phật giáo và vào thời vua Ashoka tiêu biểu Phật
giáo nguyên thuỷ. Phản ảnh này được cho là thời kỳ của phái nguyên thuỷ
hay là Hinayana – Tiểu thừa.
Nhưng sau thời kỳ này có
nhiều khuynh hướng được phát triển trong khoảng thời gian giữa vua Ashoka và
hoàng đế Kanishka và trở nên cách biệt, từ đó nảy mầm Mahayana Buddhism – Phật
giáo Đại thưà.
Trong khoảng 500 năm sau
khi Phật nhập Niết bàn, vào thế kỷ thứ nhất và thứ hai của kỷ nguyên AD, một
cuộc cách mạng trong tư tưởng Phật giáo xảy ra. Những tư tưởng mới này
thực ra đã có nguồn từ lâu trong các hệ phái miền Nam và miền Đông bắc nước
Ấn. Những Phật tử cho đó là phái Đại Thừa, Mahayana, “cỗ xe lớn”, “Con
thuyền lớn” và họ cho Hinayana là "cỗ xe nhỏ", “con thuyền nhỏ”.
Tư tưởng Đại thừa , Mahayana được
mở rộng do đáp ứng với mong muốn của các Phật tử Ấn Độ. Phật Giáo vào thời
đó chỉ dành cho các vị tu sĩ. Thường dân Phật tử không được tham dự
các hoạt động nghi lễ tôn giáo. Và những vị tu sĩ “A la hán»càng được trọng
vọng như là các qúi tộc trên con đường cứu rỗi hoàn toàn có tính cách cá
nhân. Tư tưởng « not-self » hay là «vô ngã » không
có nghĩa gì đối với người bình dân nếu vị hành giả chỉ theo đó mà làm lợi cho bản
thân họ. 500 năm nỗ lực dòng dã làm Phật giáo mệt mỏi và xa lạ khỏi quần
chúng trong khi lại khó tìm thấy các vị A la hán thật sự.
Tư tưởng Mahayana – Đại
Thưà mới mẻ này có vẻ hấp dẫn cho cả tu sĩ lẫn Phật tử. Tầm
quan trọng của giáo dân được biểu hiện qua Vimalakirti, một nhân vật trong
huyền thoại Sanskrit người đã từng có những cái nhìn sâu sắc và lòng từ bi bác
ái tương ứng với những hoạt động của ông trong cuộc sống dân sự.
Trọng điểm của chủ
thuyết Mahayana là chuyển hướng từ sự chú trọng vào quả Arhat - A la Hán - Giác
Ngộ cá nhân – enlightened person- qua Boddhisattva – Bồ Tát - Chúng sinh
được Giác Ngộ – enlightened being.
Trước kia Bồ tát có nghĩa
là một vị Phật sẽ thành. Theo Đại thừa có nghĩa chúng sinh là người đã
họăc sẽ đạt giác ngộ. Nhưng sự đạt được giác ngộ không phải chỉ cho chính
bản thân họ; mà phải là sự theo đuổi mục tiêu cứu rỗi các chúng sinh
khác. Những lời nguyện của Bồ tát còn đi xa hơn nữa là sẽ không vào cõi
Niết Bàn trước khi các chúng sinh đã được vào nơi đó. Cũng như Đức Phật,
vị Bồ Tát phải thực hành các độ phẩm toàn chân thiện mỹ (paramita), và
điểm quan trọng là sự bố thí(dana), và trí huệ ( wisdom.) Lòng
vị tha cao cả trong vị tri như thế đã có kết quả làm phát huy lòng tín ngưỡng
trở lại với Đạo Phật và đặt lòng từ bi bác ái một điểm chính yếu trong sự
thực hành Phật pháp.
Hình ảnh một chiếc
thuyền to lớn, con thuyền Bát Nhã, của phái Đại Thừa tạo ra một biểu tượng
chung cho các tôn giáo của Ấn Độ. Tư tưởng của Ấn Độ giáo, Hindu, Đạo
Jain, và Đạo Phật cho khổ đau và luân hồi như là một biển rộng hay con sông lụt
ngăn chặn nhân gian tới bờ giác ngộ, nirvana. Giòng sông Hằng mỗi khi bị
lụt tràn nước cho người Phật tử Ấn một biểu tượng của cõi luân hồi vô
tận. Các vị đại sư phái Đại thưà cho rằng pháp lý của họ cũng như một
'con thuyền lớn' đưa nhân loại qua ‘bờ bên kia vào cõi Niết Bàn.’ Phái theo tiểu thừa bị cho là chỉ cung cấp
các' thuyền nhỏ' cho một thiểu số có tâm linh cao qua bờ mà thôi.
Trong trường phái Đại
Thừa, các Bồ Tát có thể là những chúng sinh toàn năng hay các nhân vật thần
thoại như ngài Avalokiteshvara, hay Bồ Tát Di Lặc- một vị Phật tương lai đang
lo cho nhân loại chúng sinh. Đức Phật thì được thần thánh hoá. Một
vị Bồ tát phải đạt (6) lục độ
phẩm – quảng đại, kiên trì, thiền định, đạo đức, năng lực và trí huệ. Qủang đại
là một yếu tố quan trọng nhất. Giáo thuyết này được bành trướng mạnh
trong khoảng 200 AD do Ngài Long Thọ- Nagarjuna, một nhà hiền triết Phật giáo.
Đây là kỷ nguyên của Madhyamika , Middle Way hay là Trung Đạo.
Vì không thể chấp nhận
việc Đức Phật nhập đaị Niết bàn là một sự kiện đơn giản nên một số lớn đệ tử và
tín đồ ngưỡng mộ Đức Phật đã phát động lên lý thuyết về Tri-Kaya- hay Tam
Thân. Lý thuyết này khẳng định rằng tương đương với niết bàn, Pháp thân -
Dharma-kaya (body of essence) đã có ẩn giấu tất cả các hiện tượng
đó. Sau Pháp Thân có Báo Thân - Samhoga-kaya (body of
bliss). Và rồi từ Báo Thân xuất hiện Hoá Thân - Nirmana-kaya (body of
magical transformation - hay thể chất của thần thông biến hoá biểu hiện trong
một người vừa bình thường vừa siêu phàm như Đức Phật có ghi nhận trong lịch sử
của vùng Đông Bắc Ấn Độ.)
Sự tin tưởng phức tạp
này là một hệ thống cực đoan xa rời khỏi hệ thống nhân bản và bình dị thể hiện
trong các bài giảng bằng tiếng Phạn. Nó cho thấy rõ ràng ảnh hưởng
của phái Hindu Bhakthi phổ
thông và của Ba Tư (Persian) cùng với những lý thuyết thần học
Hy Lạp – La Mã (Greco-Roman) đã từ từ thẩm thấu vào từ hướng tây bắc
của Ấn Độ.
Đi song song với lý
thuyết mới này là một đường lối dân chủ địa phương trong đó tín đồ đã thấu hiểu
một cách rành mạch là đối tượng sùng tín của họ và chính cá nhân họ tuyệt đối
là một. Mọi người ai cũng có phôi thai trong mình cái Phật tính.
Chính bên trong trường
phái Đại Thừa đã có những giòng tư tưỏng khác biệt. Một chiều hướng có
ảnh hường rõ rệt nhất là phái Madhyamika (những người có tư tưởng Trung Đạo)
được biết là do đại hiền triết của Nalanda, ngài Long Thọ (Nagarjuna of
Nalanda) thời đó khởi xướng. Ngài Long Thọ đã viết ra một số lý thuyết,
trong đó quan điểm về Trung Đạo (Madhyamika-karika) được coi là một tuyệt tác
và trình bầy triết lý của trường phái của Ngài theo một phương cách có hệ thống
mạch lạc. Quan điểm này cho rằng Vô Ngã – hay sunyata là chân lý
tuyệt đối không thể nghĩ bàn. Quan điểm này còn cho rằng không có gì khác
biệt giữa niết bàn, vô ngã, và luân hồi sinh tử. Một vài giáo
phái Trung Hoa đã truyền bá chủ trương vô ngã
này nên hệ thống Trung Đạo đã được duy trì lâu
dài. Môn phái Sanron của Nhật cũng theo đuổi đường lối này.
Trường phái Yogacara hay Du Già, chuyên tập luyện Yoga do ngài Maitreya sáng lập trong thế kỷ thứ 3 AD nhưng lại được những người khác
nhóm, hai anh em khác cha (mẹ) Asanga và Vasubandhu, phát huy trong thế kỷ thứ
4 AD tại thành phố Gandhara. Trường phái này đạt tới tột đỉnh trong thời
đó. Trường học Yoga, có tên như vậy, vì chú trọng vào việc thực hành Yoga
như một phương pháp hữu hiệu nhất để đạt tới trạng thái giác ngộ tuyệt đối
(bodhi). Trường phái này cho rằng chỉ có tâm thức mới là thực tại tối
cao. Nói tóm lại, họ dạy về lý tưởng của tư tưởng cá nhân, hay ý
nghĩ (thought) tự nó là sự thật.
(Subjective idealism – Duy Thức học).
Nhiều ý nghĩ sáng tạo lan tràn rộng lớn đánh dấu sự phát triển cao độ của
trường phái Đại Thừa của Phật giáo. Nalanda (Na Lan Đà) tại thành phố Bihar
phía đông của Ấn Độ, là một trung tâm phân phối học bổng Mahayana nổi tiếng và
được ca tụng nhất của trường phái này tại Ấn Độ.
Vào thế kỷ thứ 7 AD một
hình thức khác của Phật Giáo xuất hiện, được gọi là Vajrayana ( Diamond or
lightning vehicle) hay Kim Cang Thừa. Trường phái này còn được biết
tới hay được nhận diện một cách rộng rãi hơn bằng tên Tantrism hay
Mật tông vì những cuốn kinh sách linh thiêng bằng mật ngữ gọi là Tantras (Thần
chú). Phương thức của phái này bao gồm việc thực tập Yoga chung với lý
thuyết về lễ nghi long trọng phức tạp, hòa hợp với những bí thuật và kèm theo
sự thờ phượng một số đông thần linh, cùng các vị Phật và các vị Bồ
Tát. Học thuyết bí truyền này được Asanga khích lệ và phát huy, và từ lý
thuyết đó phát sinh ra những liên hệ táo bạo, đặc biệt là các liên hệ đến những
biểu tượng về tính dục và rồi lan rộng sang các giáo phái khác cho tới khi Phật
giáo biến mất tại đất Ấn Độ.
Nguồn gốc của Tantrism
hay Mật tông đã có lâu dài ở Ấn Độ. Một hình ảnh được tôn sùng nhất của
Phật giáo mật tông là một nhà sư sống trong thế kỷ thứ 8 AD tên là
Padmasambhava (ngài Liên Hoa Sinh). Vào thời điểm đó Phật giáo Mật tông
phát triển mạnh ở vùng đông nước Ấn phần lớn là nhờ sự bảo vệ và hỗ trợ vững
chắc của triều đại vua Pala. Từ những thời gian khởi đầu các đại sư Phật
giáo đã lên án sự đam mê dâm dục là một yếu tố quan trọng trói buộc con người
vào trong vòng sinh tử luân hồi. Trong suốt 12 thế kỷ hầu hết các tu viện
đã ra lệnh và các tu sĩ Phật giáo đã phát triển sự ghét bỏ phái nữ đến mức độ
giống như của các linh mục bên Thiên chúa giáo.
Trái ngược lại, rút tỉa
ra từ việc thực hành các nghi lễ, yoga và bí thuật, các tư tưởng gia của mật
tông nhìn thấy các biểu tượng của tính dục và tính nhị nguyên của sắc dục trong
tất cả mọi vật. Tiến xa hơn nữa, họ mang các nam và nữ thần vào đền
thờ làm những đối tượng để thờ phụng như trong đền thờ Ấn Độ giáo hay theo
phong tục tập quán của người dân bình dị của Ấn
Độ.
Phật giáo mật tông được
thực hành ở Nam Dương, sau đó tiến vào Tây Tạng, rồi tới Mông
Cổ. Hình thức môn Phật học này được nghiên cứu tại những trường đại học
thuộc tu viện Nalanda và Vikramasila cho đến cuối thế kỷ thứ 12 AD thì bị quân
đội xâm lăng của tướng Hồi giáo Bhaktiyar Khilji (please Google) tàn phá sau
khi đã dọn sạch Ấn Độ giáo và Phật Giáo.
Tuy nhiên Mật tông đã tạo ảnh hưởng sâu đậm trong sự phát huy của Phật giáo ở Tây
Tạng.
MAHAYANA & HINAYANA BUDDHISM
Buddhism in Tibet
Page 210
Tây tạng là nơi cuối
cùng tại châu Á cải hoá sang Phật Giáo. Tuy ở một địa thế cách biệt nhưng
Tây Tạng là một cường lực ở Á Châu; đã lấn sang Trung Hoa trong khoảng thế kỷ
thứ 7 và thế kỷ thứ 9 AD, chiếm thủ đô Chang’an trong một thời gian ngắn.
Sự liên lạc chung đụng ranh giới với Trung Hoa, Kashmir, Ấn Độ, và Nepal trong
những thế kỉ này đã mang Phật Giáo và Ấn Độ giáo vào Tây Tạng và giúp cho sự
thành hình rực rỡ của nền văn hoá Phật giáo Tây Tạng.
Khởi thủy của Phật Giáo
Tây Tạng bắt đầu bằng huyền thoại rằng có vài nhà truyền giáo tới gặp vua
Tho-tho-ri, và dâng lên ngài những cuốn Kinh Phật nhưng họ phaỉ thất vọng trở về
vì hoàng gia không thể đọc và hiểu những vần chữ lạ lùng.
Khi vị vua trẻ tuổi
Sron-btsan lên ngôi, ngài chỉnh đốn quân đội cao tới mực mà ở phía nam
Vua Ansuvarman của Nepal và sau này Hoàng Đế Trung Hoa T’ai-tsung ở phía bắc có
ý giao kết đồng minh với Tây Tạng bằng cách gả con gái của họ cho vua.
Hai hoàng hậu Bhrukuti của Nepal và Wen-Ch’eng của China yêu cầu vua nên đem Phật
giáo vào Tây Tạng.
Khi Phật giáo được đem
vào Tây Tạng, dân địa phương thực hành dưới hai hình thức và gọi là Đạo
Bon. Một hình thức thiên về thờ phụng vua chuá. Vì các vị vua được
coi như là người cai trị linh thiêng nên những nghi thức tang lễ rất là quan trọng,
và trách nhiệm ưu tiên của các vị Đạo sĩ Bon là duy trì và thực thi các
nghi lễ để củng cố sự tồn tại liên tiếp của hoàng gia và các thần
linh.
Cũng như các vị vua lãnh
đạo trước kia và sau này, những quốc gia lân cận trong vùng, Vua Sron-btsan
công nhận tiềm năng hợp nhất của Đạo Phật , và về sau vua được phong là một hoá
thân của Avalokiteshwara. Vua đã từng gửi một sứ giả của hoàng
gia , Thon-mi Sambho-ta, cùng một đoàn 16 người sang Ấn độ học cổ ngữ, âm ngữ
và văn phạm, và từ đó vua đặt sự tin cẩn vào phái đoàn, sáng lập ra vần chữ
cái, ngôn ngữ, và văn phạm căn bản cho tiếng Tây Tạng. Thon-mi đã làm việc
rất đắc lưc, ngoài việc soạn thảo các tập luận biệt lập về chữ viết và văn
phạm Tây Tạng, ông còn soạn dịch một vài công trình Phật Học từ kiếng
Sanskrit.
Trong thời vua
Sron-btsan các truyền thống của tu viện hay tịnh xá đều được đặt ra bởi các vị
sư từ Ấn Độ và từ Trung Á tới đây. Vua ban hành luật cho hoà hợp với
nguyên tắc Thập Thiện trong đạo Phật. Ngài xây những đền nổi tiếng như
Ramoche và Jhokhang ở Lhasa, và công trình kiến trúc vĩ đại lâu đài
Potala - còn tồn tại tới ngày nay một phần nhỏ của kiến trúc do
vua khởi dựng.
Phật giáo phát triển và
tạo nền tảng trong thời cai trị của vua Khri-song 740-798 AD. Quyền hành
cuả tổ chức các cộng đồng Phật tử hay Tăng Đoàn được thiết
lập và với sự xuất hiện của Mật thừa đại tu viện Padmasambhava ở Samye được
thánh hoá. Nơi đây từ khoảng 779 AD trở lên , các vị sư Tây Tạng được
thụ phong. Không may thế kỷ sau đó do sự bất ổn định của Tây Tạng, Đạo
Bon lại nổi dạy làm Đạo Phật bị lu mờ.
Sau này sự truyền
bá Giáo Pháp lại được phục hồi và Đạo Phật được "giới thiệu lần thứ
hai" và được thiết lập như một quốc giáo dưới vương quyền của vua
Khri-sron-ide-btsan 755-797AD. Dưới triều vua Ngài thiết lập tu viện to lớn
đầu tiên tại Bsam-yas theo kiểu của Udyantapuri ở Bihar, Ấn Đô. Dị giáo
bị thanh trừng khỏi các tu viện và giáo luật của Theravada – Nguyên thuỷ – dựa
theo Luật Tạng được áp dụng trong các tu viện mới lập. (Luật tạng là
một trong Tam tạng được soạn thảo bằng tiếng Phạn bởi các nhà sư giáo phái
Nguyên thủy). Vị có công cải cách Phật giáo nổi tiếng nhất là một
nhà sư người Ấn Độ tên là Atisa (982-1054 AD) tới Tây Tạng năm
1042. Người ta cho rằng chính nhờ ảnh hưởng của vị sư này mà có sự truyền
bá lan rộng của giáo phái Avalokiteshwara, một vị thánh bổn mạng của Tây Tạng.
Sư Atisa giữ nguyên Mật
tông thừa để truyền cho các đệ tử thân cận. Ngài thuyết giảng Phật giáo Đại
thừa và Ngài được đặc biệt biết đến do việc khôi phục lại phương pháp khắc nghiệt
trong sự tu hành. Ngài lưu lại ở Tây Tạng 13 năm và mất tại đây vào năm
1054 AD.
Sự cải tổ của
Atisa được tiếp tục và củng cố bởi các tăng sĩ ở thế kỉ thứ 11 do
thu nhập các văn kiện và giáo lý từ Ấn Độ vào. Các phái Tiểu thừa và Đại
thừa đều du hành tới vùng cao nguyên Tây Tạng nhưng chỉ phái Đại thừa và hệ thống
Mật Tông Ấn Độ là còn tồn tại và Giáo Pháp của ‘Cỗ xe Kim cang’ hay
trường phái Vajrayana được khai triển đầy đủ . Sự thống nhất
của tín đồ hai phái này giúp họ tăng trưởng và tồn tại trên căn bản của sự tiếp
xúc thường xuyên với các Phật tử Ấn Độ.
Vào khoảng thế kỉ 16 quyền
lực chính trị cuả ‘Trường phái Đạo Đức’ (Gelugpa) do Ngài
Tsonkhapa tạo dựng được chính thức hoá. Dựa trên những luận thuyết của
các triết gia Ấn Độ và của Ngài Atisa, Ngài truyền bá Đại Thừa Pháp và Mật Tông
Pháp. Ngài hoà nhập hai phương pháp dựa theo bảng xếp hạng của Ngài
Atisa; Hinayana (Tiểu thừa) là con đường của những người có khả
năng vừa phải. Mahayana ( Đại Thừa) cho những người
có khả năng cao hơn, và Vajrayana, Kim Cang thừa hay MậtTông thừa là ‘cách tu nhanh chóng’ dành cho những
người có trí tuệ và tâm linh cao. Trường phái này còn gọi là New Kadampa hay Mũ
Vàng. Sự thành công của trường phái này là một hiện tượng ở thế kỷ 17 và họ
đã thiết lập sự kiểm soát toàn bộ lãnh thổ dưới sự lãnh đạo của hoá thân thứ 5
của Ngài Tsongkhapa; còn gọi la ĐaLai LaMa thứ 5 theo tiêu đề
Mông Cổ ban cho dòng phái này từ thế kỷ thứ 16. Với một vài cải
cách tùy nơi chính quyền tôn giáo này tiếp tục cho đến năm 1959 Ngài Da
Lai La Ma 14 phải rời Tây Tạng dưới sự đe doạ của Cộng Sản Trung Quốc.
Có sự thống nhất trong chánh
tống phái Tây Tạng tuy có những chi tiết nhỏ khác biệt trong
các nghi lễ và sự thực hành giữa các tu viện . Sự kiện này được hỗ
trợ bằng toàn bộ Kinh Điển Phật Pháp được dịch sang chữ Tây Tạng. Có nhiều
bản Kinh Điển Sanskrit chỉ còn tồn tại qua các bản dịch sang chữ Tây Tạng.
Những biểu tượng rộng lớn của nghệ thuật nguyên thủy được tạo tác khắp nơi xung
quanh các tu viện; tranh sơn, điêu khắc bằng kim khí cũng như các công trình kiến
trúc. Rất nhiều các tu viện và những đồ trang trí trong đó bị phá huỷ hoặc
xúc phạm trong hoặc sau thời kì cách mạng văn hoá khoảng thập niên 1950 của
TQ. Tuy một số người man rợ đã phục hồi những mất mát nhưng Tây Tạng vẫn
còn là một nước bị xâm lấn, với một chính phủ lưu vong. Đức ĐaLaiLama 14
hiện cư trú ở Dharamsala, Ấn Độ ; các nhà lãnh đạo khác và nhiều thường
dân Tây Tạng đang lưu vong tại Ấn Độ hoặc các nước Tây Phương .
The Buddhist Cosmos in
Tibet
Page 217
Vũ trụ quan của Phật
giáo Tây Tạng là một tổng hợp của huyền thoại của Ấn Độ giáo và
Phật Giáo, cả Tiểu Thừa và Đại Thừa đều đề cập tới. Giáo phái Tây
Tạng giải thích Jambudvipa hay Diêm Phù Đề, lục địa của loài
người, là một trong 4 địa quay xung quanh Núi Tu Di – Mount Meru, một
trục của vũ trụ.
Trong truyền thống
Tiểu thừa thế giới (loka), gồm có 3 cõi.
Thứ nhất là Dục giới hay Kama-loka (the World of the senses) có 6
hạng từ cao xuống thấp: trời, người, atula, súc sinh, ngã quỉ, địa ngục.
Trong tầng hạ hơn nữa có Indra và các vị thần của Ấn Độ
giáo. Thế giới của atula hay các
quỉ thần, titan, thì có rất nhiều loại nửa người nửa thánh luôn luôn
có những sự xung đột với các vị trời về cái “cây ước muốn’ (great
wishing tree) cao gần nửa đường lên
núi Tu Di. Có 6 đường luân hồi tương
ứng theo 6 tạng của Dục giới nhưng không có gì hơn bằng con đường đạt
tới Niết Bàn.
Thế giới thứ hai (second
loka), trong Tiểu thừa là sắc giới, Rupa-loka, của các vị trời cao
hơn, và thế giới thứ ba là vô sắc giới (immaterial world) nơi các vị
trời ngự vô biên giới và vô thức giới.
Những ai từng thực hành thiền định và đạt kinh nghiệm tới cõi
vô sắc, không gian vô tận, và vô thức giới có thể được sinh vào cõi
này.
Nhiều vị sư Tây Tạng,
lamas, nói với đệ tử là không có địa ngục mà đó chỉ là ảo tưởng
nhưng dầu sao cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa
đều có những tranh hình ảnh của các cõi địa ngục. Những địa ngục nà nằm sâu trong lòng
đất được cai quản bởi Diêm Vương God Yama, người phán xét các nghiệp
của kiếp trước. Trách nhiệm cá
nhân là trọng tâm của sự phán xét và đền tội. Trong truyền thống Tiểu thừa có 8 cõi
địa ngục; sách Tây Tạng liệt kê 16,
có cả nóng và lạnh. Địa ngục xấu
xa nhất là – Avici – địa ngục A Tì nơi dành cho những người bị tra
tấn vô tận vì tội phỉ báng Đức Phật hay Tăng Đoàn.
Trường phái Phật
giáo Đại Thừa của Ấn Độ đã ảnh hưởng tới Phật Giáo Tây Tạng trong
sự thâu nhập thuyết lý “Cỗ Xe Thần
lực”, “Vehicle of Thunderbolt” (please Google this), hay Vjara mà từ đó Tây Tạng đặt tên cho tông phái
cuả họ. Trong Ấn Độ giáo, thần
lực này từ kim cương và cũng chính là kim cương cứng rắn có thần
lực mà Indra, một vị chúa trời của Vệ Đà (Vedic) dùng giao chiến
với Atula hay Titans. Trong Tây Tạng,
biểu tượng chiến thắng vững chắc không thể bị huỷ diệt này trở nên
tiêu biểu của chân lý tuyệt đối và là một danh hiệu của Phật Giáo
Tây Tạng.
Tantric Buddhism
Page 218
Phật Giáo Mật Tông được
khai triển ở Ấn Độ nhưng có nhiều tín đồ trong thế giới Phật Giáo noi theo. Tầm
quan trọng là Mật tông là trọng tâm của một Phật
Pháp phức tạp, linh động được tiến triển trongTây Tạng. Điều
cần thiết là có một sự hiểu biết căn bản về những nghi lễ và niềm tin để hiểu về
Phật giáo Tây Tạng.
Tantra, một hình thức thần
bí của tư tưởng Phật giáo và Ấn Độ giáo, được xuất hiện tại Ấn Độ vào khoảng
700 AD, một ngàn năm sau khi Đức Phật lià trần. Trong Đại Thừa các vị thần
và ý niệm về thượng giới là từ Ấn Độ giáo; Tantra cung cấp thêm những
biểu tượng huyền bí cho sự sùng tín của Đại Thừa.
Tâm điểm của Mật tông là
những hình ảnh của nam thần và nữ thần trong trạng thái liên hợp tình dục lõa
thể. Những vị nam thần của Ấn Độ giáo luôn luôn có những nữ thần hộ vệ
bên cạnh. Đặc biệt là chúa tể Lord Shiva và nữ thần Parvati. Trong
các thể dạng khác nàng là một nữ thần chiến binh Durga, hoặc là một ‘nữ thần
đen’ Kali. Sự khai triển của Mật tông dường như đi kèm với tính cách
thần lực quan trọng của các nữ thần mà nhờ đó vũ trụ được tạo nên dựng.
Biểu tượng của những vị nam và nữ thần từng cặp một có hai thực thể: một
là thể hiện của sức sống còn và là năng lực shakti đang hoạt
động trên thế giới.
Cũng giống như nam và nữ
thần trong Ấn giáo, Phật và Bồ Tát trong trường phái Đại Thừa chấp nhận các vị
nữ thần. Thường ra họ là những vị dễ gần gũi hơn là những nam thần, và từ
đó Phật Bà shakti được sáng tạo dưới hình thức gọi là Tara. Vị shakti bên cạnh
Đức Phật có khi biểu hiện là Prajnaparamita – Chân Thiện Mỹ- Perfect
Wisdom. Một trong những ý nghĩa của biểu tượng shakti qua kiến thức đầy đủ
của Mật tông, và qua sự hiểu biết cao cả là phải có sự đối chiếu và hoà hợp của
hai thái cực trên thế giới – nam/nữ, tốt/xấu, sáng/tối, luân hồi/niết bàn.
Trong thời kỳ nguyên thủy
các nghi lễ Mật tông được thi hành một cách bí mật về ban đêm vì chỉ có những
người đã từng thụ pháp những biểu tượng của họ mới được tham gia. Tuy
không có sự kỳ thị giai cấp nhưng một buổi tối của puja, một hình thức nghi lễ
của Ấn Độ giáo, được tiếp theo bằng những hoạt động dính dấp tới tình dục cấm
kỵ của các tín đồ chính thống Ấn; thành thử hội viên hay người gia nhập cũng bị
hạn chế.
Tư tưởng Mật tông xâm nhập
vào Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Tây Tạng không phải do từ chính thống
giáo. Cũng như Ấn Độ giáo, Thần chú trong Đạo Phật là do bởi các nhà sư
bên ngòai lề của các tăng đoàn sáng tạo. Họ là những người tìm kiếm cách
biến hoá chính cho họ thành Phật. Tụng chú và hô hán các từ ma thuật cộng
bùa chú để van xin thần lực thật ra cổ xưa như văn minh con người.
Mật tông đã vay mượn những thần chú và sáng tạo nên các câu chú riêng của họ.
Thần chú cao nhất của Mật tông là “Om mani padme hum”. Sáu chữ của câu thần
chú này – mani (jewel) va padme (in the lotus) trong Sanskrit tương dương với lục
độ phẩm của Bồ tát hạnh: quảng đại, kiên trì, thiền định, đạo đức, năng lực
và trí huệ.
Sutras, Kinh tạng, nói về
giáo lý, Vinaya hay Luật tạng nói về các điều luật cho tăng đoàn, và Abhidhama
hay Luận tạng nói về thuyết luận của sự hiểu biết Phật Pháp. Hầu hết kinh
tạng Mật tông cho biết những chi tiết của các câu thần chú,
âm thanh thần bí, dấu ấn, những sơ đồ huyền diệu (magical diagram) cuả
yantras and mandalas, và những nghi lễ để làm cho các tín đồ sẽ trở thành
siddhas, người thuộc về quyền lực. Những vị sư chính tông chấp nhận rằng
họ phải trải qua nhiều kiếp khổ đau để được đạt tới Niết Bàn. Tín đồ theo
Mật tông, mặt khác, họ tin vào những nghi lễ và sự thụ pháp trong các nghi lễ của
ma thuật bán mật thì họ có thể chuyển hoá sang quả Phật.
Vajrayana, the Buddhism of Tibet
Kim Cang Thừa, Phật giáo Tây Tạng
Page 221
Phật giáo Tây Tạng, hay Kim
Cang Thừa (Vajrayana), được xem như là một hoc pháp đầy đủ toàn bộ vì có hòa hợp
chủ trương của cả hai học thuyết Tiểu thừa và Đại thừa cùng với sự thực thi những
tin tưởng và thực hành nghi thức của Mật tông Ấn Độ.
Tu sĩ của phái Kim Cang thừa có
một tiến trình tu học đặc biệt kéo dài, bao gồm toàn bộ triết lý, thần học, và
nhận thức luận của Phật giáo. Những người đạt tới trình độ tiến sĩ Vjara
hay trình độ học thức của cấp bực “geshe” hoặc là rabjam-pa (học bác thâm thúy
hay thạc sĩ Phật học) đã phải trải qua gần như từ 20 tới 30 năm ngoại trừ 12
năm học căn bản cần thiết để đủ được thọ giới.
Kim Cang thừa, như chúng ta biết,
là “kim cương thần lực” mà Indra, chủ tể của các thần linh Verdic/ Mật tông đã
xử dụng và khắc phục được những kẻ thù của chính ông và của trật tự đạo đức. Đặc tính vĩnh cửu bất diệt của
Kim Cang thừa, từ sự kết hợp độc đáo của hình thức vững chắc với không gian nội
tâm tạo cho nó thành một cái gì thật tiêu biểu đối với các Phật tử của họ. Nó
cũng là biểu tượng của phái nam, lòng từ bi, những đường lối khéo léo đạt tới
niết bàn. Trong những nghi lễ của Kim Cang thừa, thông thường có cái chuông đi
kèm, như một tiêu biểu cho sự hiểu biết ‘toàn hảo’ của phái nữ hay còn được biết
là Bát Nhã Ba La Mật – prajnaparamita. Giống như rất nhiều biểu tượng của
Mật tông, người nam và người nữ tượng trưng cho một sự hoà hợp của nhị
nguyên mà bản chất là một.
Bản văn quan trọng của Kim
Cương Thừa là cuốn Kinh Hevajra Tantra, trong đó có đề cập đến mối liên hệ giữa
thần hộ vệ linh thiêng Hevajra với bạn đồng hành của ông ta, nữ thần Nairatmya
(về vô ngã). Mục đích lớn của bản văn này là thống nhất nhận thức về luân
hồi (samsara) với niết bàn (hay giác ngộ). Luân hồi được đồng hóa với “những
phương cách khéo léo của lòng từ bi” và niết bàn là “trí tuệ”. Theo như
Kinh Hevajra, chỉ có các nghi lễ liệt kê trong Kinh sách này (Mật tông) mới kết
nối cái quan điểm là “không có gì khác biệt giữa niết bàn và luân hồi’. Bản
chất này, là Thân Khẩu Ý của tất cả các vị Phật, không tách biệt, vững chắc như
là “Kim Cang” hay thần lực.
Theo Kim cang thừa thì ngoài ba
giới: dục giới, (kama-loka world of the senses,) sắc giới (rupa-loka- fine material
world,) vô sắc giới, (arupa loka, immaterial world) còn có thêm hai tầng
trời xa hơn. Ngự trên cõi trời cao nhất là Adi Buddha, hay Bản
Sơ Phật , do thiền định Ngài làm nổi bật lên 5
“conqueror” Buddhas (Jinas) ở tầng trời dưới. Các Chiến Thắng Phật, hay
Jinas, là tứ phương Phật mà Vairocana, (Đại Nhật Như Lai) tượng trưng cho Pháp
Thân hay Vô Ngã, ngự ở trung tâm điểm. Những vị Bồ tát như Avalokiteshvara
(Quan Âm), Manjushri (Văn Thù Sư Lợi) và Samantabhadra (Phổ Hiền),
đều ở trong các tầng trời bao quanh như những hóa thân của các vị Phật.
Khi Ngài Liên Hoa Sinh, vị thầy
của Mật tông, đật chân đến Tây Tạng, Đạo “Bon”(Dị giáo), lúc đó đang thịnh
hành, tin tưởng là những thần thánh và ma quỉ đòi hỏi ngoài những lễ vật khác
phải có tế lễ bằng máu huyết của các động vật nữa. Thay vì đối chọi và
phá chấp những thực hành như vậy, Ngài Liên Hoa Sinh đã thương lượng với các đạo
sĩ “Bon”. Theo truyền thuyết, Pehar, một trong những vị thần có quyền thế
nhất của Tây Tạng từ bỏ những đòi hỏi hy sinh đó để đánh đổi lấy sự bảo trợ của
Phật Pháp. Thay vi máu huyết của các sinh vật, vị thần này đã chấp nhận
tánh ích kỉ của người dân Tây Tạng là lễ vật thay thế. Sự liên hợp tôn giáo này
là căn bản trong giáo pháp của Tây Tạng – phần lớn các thần linh hay ma quỉ có
trước thời của Phật giáo được trộn thêm vào trong Kim Cang Thừa hoặc được cho
phép tồn tại song song với tôn giáo mới (Mật tông).
Do đó, một phần quan trọng
trong Kim Cang Thừa là sự hiện diện của những vị thần khủng khiếp, dễ sợ.
Một trong những vị thần này là Mahaka (Đại Hộ Pháp đen), tuy dữ tợn nhưng lại hỗ
trợ đắc lực cho vị thần Phật giáo, hoá thân của thần Shiva. Những đại biểu hung
dữ của Phật có tới mười hai cánh tay mang nhiều biểu tượng khác nhau như trống,
mũ hộp đầu lâu và những cây đinh ba được biết đến như là herukas (những thần Phẫn
Nộ). Một vị thần phẫn nộ này là Samvara: người hung dữ khủng khiếp là một
khía cạnh khác của Chiến Thắng Phật (Jina Buddha) ở phía Đông. Những
vị herukas lại có vệ nữ bên cạnh gọi là thần nữ dakinis; những vị thần dakinis
này thường được mô tả là người có đầu tóc bù xù, với con mắt thứ ba, và đứng
trong tư thế như đang nhảy múa. Người ta tin rằng ngài Liên Hoa Sanh đã
được những nữ thần dakinis giao cho những cuốn sách mà ngài dựa theo đó và lập
nên căn bản cho lý thuyết Mật tông của ngài.
Diện tiêu cực của những Bồ Tát
cũng là do ma quỉ hoá thân. Thí dụ như cái khía cạnh hung dữ của Ngài Văn
Thù Sư Lợi, hay vị Phật của Trí Tuệ, là Yamantaka (Thần Chết).
Tất cả mọi người khi thực hành
Kim Cang thừa đều được các vị thầy dậy Lama chọn cho một vị thần yi-dam (thần hộ
mạng) như là phần khởi đầu của sự phát giới. Thần hộ mạng (yi-dam, god
protector) này được thầy Lama chọn để phù hợp với cá tính riêng của mỗi cá nhân
đệ tử. Mỗi một Ngũ phương Phật đều có một vị thần Hộ mạng đầy giận dữ
và mỗi một thần Hộ mạng là tượng trưng cho một lỗi lầm về tâm thần tiềm ẩn
trong cá nhân người đó, như giận dữ hay ghen ghét. Cộng thêm vào việc chọn thần
hộ mạng cá nhân, các đệ tử còn nhận được những câu thần chú liên hệ tới vị hộ mạng
đó. Việc lập đi lập lại những câu thần chú với sự giúp đỡ của xâu chuỗi hạt,
người mới phát giới sẽ hình dung được vị thần của họ một cách rõ ràng.
Thí dụ như nếu ông thần hộ mạng là Yamantaka (Thần Chết), thì người đệ tử mới,
qua sự dậy dỗ của vị Thần chết này, sẽ có thể đạt được trí tuệ của vị Bồ Tát đối
nghịch là Văn Thù Sư Lợi (Manjushri).
Bằng cách ráo riết thực tập
Yoga về tinh thần và bằng thiền định để được có thể đồng hóa với vị thần cao nhất
là khao khát của người đắc đạo cao trong Mật Tông. Một phản ảnh quan trọng
của Đức Phật là Kim Cang Bồ Tát (vajira being, Vajirasattva) hay Kim Cang
Hoá Thân (Vajira-holder, Vajiradhara). Tại trung tâm điểm của mô hình
mandala có diễn tả những vị thần siêu đẳng hay những vị thần liên hệ trong thế
ôm những vệ nữ coi đó mà siddha(/người đạt tới mức có thần thông) dùng như là
những cỗ xe ( phương tiện) để đạt giác ngộ qua sự nhận diện với vị thần hộ mạng.
Bên cạnh việc phải thông hiểu
rõ ràng các đặc điểm phức tạp của Mật tông, các đệ tử Tây tạng còn được huấn
luyện về tâm linh theo cùng một đường lối như các Phật tử thời xa xưa. Họ thừa
nhận thẩm quyền của và quy y Tam Bảo, hiểu rõ về Tứ Diệu Đế, biết phân tích Ba
đặc tính của sự hiện hữu, thực tập tĩnh lặng, hành thiền minh sát, và thiền định
trên sự chết. Những quyền lực rút tỉa ra từ Thần chú được thêm thắt vào với nền
tảng chính thống vững chắc.
Kim Morris lược dịch
November 12 2012
Las Vegas NV USA
********************************************************************
Trong truyền thống
Phật Giáo Tây Tạng, trong trạng thái đầu của thiền mandala luôn luôn có sự giám sat bởi một vị Lama
vị này sẽ chọn cho đệ tử của mình một mandala chi phối bởi một
trong Ngũ phương Chiến Thắng Phật five Jina Buddhas mà bề diện tối tăm
của vị này tương ứng với lỗi lầm trọng yếu của người đệ tử.
Tất cả nhân loại được
xem như thuộc về một trong Ngũ phươngThắng Phật năm, mỗi trong năm yếu tố của
tư cách được liên kết cả một lỗi và một màu sắc biểu tượng.
Buddha Màu
Sắc Uẩn Lỗi lầm
Vairocana trắng sắc ảo
tưởng
Ratnasambhava vàng thọ ác ý
Amitabha đỏ thức tham
Amoghavajra xanh blue hành ghen tị
Aksobya xanh dương tưởng giận dữ
Tibetan Meditating Mandala
symbols: These are Five Jina Buddhas (conquerors of Ignorance) representing
five factors of human personality or skandhas that link both to a fault and a
symbolic color. These skandhas are: By association: Buddha: Vairocana
(emptiness)- in the center - white - form - delusion. Ratnasambhava - yellow -
feeling - ill-will. Amitabha - red - consciousness - greed. Amoghavajra - green
- karmic deposits - envy. Aksobya - blue - perception - anger.
Laotzi: Living harmony with nature...human and nature in Oneness
Confucius: Living
in harmony in an orderly society.
Buddhism gives
foundation of the reality of life, concerning with freeing
self from suffering.
In order for China to
absorb Buddhism these all three doctrines have to
co-exist in harmony.
Confucius creates
ceremonial environment for their aristocrats in its application.
Tao gives philosophy
that helps lifting up Confucius to higher level.
Buddhism
gives Chinese divinities to worship.