Tìm Hiểu Ý Nghĩa cuả A Di Đà Vô Lương Quang.
Tôi đã
đọc một "website" có những
bài giảng về Phật
Pháp thời cổ
xưa, thấy một bài nói về Phật A Di Đà (tiếng Sanskrit là Amitabha) nên đã tò mò
tìm tòi thêm.
Vào
khoảng năm 127 dương lịch nước Quý Sương
(Kushan) đã đem quân đi đánh vương quốc Ma kiệt Đà
(Magadha). Về chỗ ở của vua Ma Kiệt Đà rồi tối tối sau khi xong việc vua thân hành đến thỉnh giáo với A Na Bồ Đề. Sabahu của Ma kiệt
Đà chịu thua vì không muốn
nhìn thấy
cảnh chết chóc thương tàn của hàng
ngàn binh sĩ
của cả hai bên. Vua
nước Quý Sương là
Kanishka ( Ca Nị Sắc Vương) đòi Ma
Kiệt Đà phải mang
ba món quý giá nhất thay cho số 900 triệu đồng tiền vàng cống nộp cho Quý
Sương. Ba món đó có luận sư nổi tiếng thời đó là A Na
Bồ Đề (Açvaghosha: A Na Bồ Đề; Tiếng Trung Hoa là Mã Minh: tiếng ngựa hí. Ngài Açvaghosha là tổ thiền thứ 12.) món thứ hai là Bình Bát của Đức
Phật, món thứ ba là một con chim
thú chỉ uống nước tinh khiết. Nhưng
vì ông A Na
Bồ Đề tuổi
già, yếu sức nên vua nước Quý Sương cho người trân trọng đi đón
tiếp và bắt dọn chỗ
cho A Na Bồ
Đề ở gần vua.
Kim Morris
-----------------------------------
The Infinite Light
Vô
lượng quang.
AMITÂBHA.
Một buổi tối Vua Kanishka với người bạn Charaka, đồng thời cũng là ngự y, đến trò chuyện với Açvaghosha. Vị vua trẻ hỏi nhà triết học đáng kính: "Vị thầy tôn kính, xin cho chúng tôi biết, chúng tôi phải tôn xưng Đức
Phật như Thượng Đế hay một người thường? "
Ông Açvaghosha
trả lời
: "Đức Phật không phải là Thượng Đế cũng không phải là một người đàn ông thường. Ngài hơn cả
hai, vì Ngài là hiện thân của sự hoàn hảo. Chúng ta khâm phục, thờ phượng
trí huệ toàn hảo và bản chất tốt đẹp của Phật, chính là ở chỗ đó, sự
thấu hiểu và ứng
dụng của sự thật của
ngài là những phẩm chất riêng nó làm ngài trở thành thánh thiện. Sự Thật
là vĩnh cửu, trong
khi tất cả chúng sinh kể cả thần thánh đều là qua
đường mà thôi."
Ngự y Charaka chen vào: "Chúng tôi không nói về các vị thần
thánh, mà chỉ nói riêng về Thượng Đế thôi, có nghĩa là tự có thiên tính. Đức Phật đã dạy gì về Thượng Đế?
Vua Kanishka
thêm vào:
"Chúng tôi muốn nói là
Thượng Đế, không theo nghĩa là nguyên tắc của sự hiện
hữu trong đạo Bà La Môn đâu; cũng không vừa
là một vị Thần vừa là
người thiết lập ra vũ trụ như của
Ishvara, mà Thượng Đế ở đây có
nghĩa là sự tốt
lành, là chân lý, là sự
công bình, như
tình yêu vậy? Thượng
Đế trong ý nghĩa này có thật
hay không? Là giấc
mơ hay là hiện
thực? Là gì vậy và làm sao chúng ta biết về điều
đó? “
Muốn
trả lời được câu hỏi của quý vị chắc sẽ phải cần cả một cuốn sách. Nhưng tôi sẽ nói ngắn gọn. Chắc chắn rồi, Thượng Đế
trong cái nghĩa này là một thực thể. Thượng Đế trong ý nghĩa này là một đạo luật tốt đẹp chính nó hình thành nên sự hiện hữu, chính nó dẫn cuộc sống tiến
lên từng bước một,
hướng tới
mục tiêu cao nhất - mục tiêu đó là sự giác ngộ. Chính
sự chấp nhận định
luật tự nhiên này
cho chúng ta
ánh sáng của những điều kiện về sự hiện
hữu của chúng ta và cũng
có thể nói ánh sáng đó
mang đến cho chúng ta
khả năng tìm
ra chính đạo;
người ta gọi đó là Pháp
thân, Dharmakaya; một
hình thức của đạo pháp; hoặc
còn được gọi là A Di Đà Vô Lượng Quang , cội nguồn của ánh sáng vô lượng, và còn được gọi bằng vài
tên khác
nữa đấy. Thông thường thì theo cái "kết quả tương ứng, không
thể thay đổi" mọi vật
trong thiên nhiên
đều có liên hệ đến sự phúc lạc của việc làm tốt hay sự tai hại
của việc làm sai lầm.
“Như thế thì một
người không phải sanh ra đã là
một vị Phật, mà người
ấy chỉ có thể trở thành Phật bằng cách đạt tới Giác Ngộ.” Nhà vua thắc
mắc.
“Đúng
như vậy”, ông Açvaghosha trả
lời. “Chân lý tối thượng không
phải là sản
phẩm của tâm; chân lý tối
thượng là trường tồn bất biến.”
Thích
Ca Mâu Ni đã đạt đến Giác Ngộ và vào thời ấy có rất nhiều người tuy đã chính mắt nhìn thấy Ngài, nhưng họ đã không nhìn thấy Vị Phật ở Ngài. Trong khi bây giờ, dù cho Ngài đã nhập Đại
Niết Bàn từ lâu, có rất nhiều người không bao giờ nhìn thấy thân xác của
Ngài, nhưng chỉ nhờ có lòng
tin mà vẫn có thể thành thực nói là đã nhìn thấy Phật, vì họ có thể cảm nhận được Phật bằng tâm linh
của họ.”
“Như vậy Vô Lượng Quang là nguyên tắc của sự hiện hữu gần giống như của Bà La Môn chăng? Ông Charaka chất vấn.
"Trong
Bà La
Môn thì đó là sự
nhân cách hoá nguyên tắc của hiện hữu," ông
Açvaghosha trả lời, "Vô
Lượng Quang là căn
bản của sự hiện
hữu. Vô Lượng
Quang là định luật
tự nhiên bất
biến của thực
chất. Bất cứ một sinh vật nào khi trở thành hiện hữu, nó có khuôn khổ của đời sống của nó, phát
triển đời sống đó,
tự phát tiết ra những sự đồng dạng và những quy tắc trong cả hai thế giới thực tại và tư tưởng. Nó
là nguồn gốc của sự chí lý và công
bình, của khoa học và đạo đức, của triết học
và tín ngưỡng. Sự
thông thái của Thích Ca chỉ là một tia của vừng ánh
sáng, nhưng
lại là một tia sáng mạnh mẽ nhất, rõ ràng nhất, sáng tỏ nhất và tinh khiết nhất. Ngài là tia
sáng chiếu đến thế
giới này, đến quốc
gia này cho riêng chúng ta. Khi trí huệ xuất
hiện ở bất cứ nơi nào, thì chỗ đó có
sự biến hóa, dù
ít dù nhiều, dù không đầy đủ, đó là ánh sáng của A Di
Đà.
"Nhưng
sự hiện hữu,"
Charaka nói thêm vào,
"lại khác với định luật
tự nhiên. Sự
hiện hữu là
một chuyện và sự
thường tình trong khuôn khổ lại là một chuyện
khác. Có một câu hỏi rất lý thú là, cuộc sống tự nó là sai hay không sai. Nếu
cuộc sống là sai, thì vui sống là tội lỗi, việc
làm cho nâng cao giá trị đời
sống, kể cả
sự sinh sản nối tiếp đời sống, lỗi lầm, và cả tình yêu, tình yêu vợ chồng, cũng trở
nên nguyên nhân cho
sự ăn năn hối cải."
"Hãy đánh dấu lấy giáo lý này, hỡi người
trẻ tuổi cao quý, và hành động cho thích
ứng," Açvaghosha trả lời. "Tôi đọc được trong mắt anh
một bí mật trong thâm tâm
khiến anh bộc lộ
ra nghi vấn này. Sự tốt lành là một thực tế nó hiện diện trong cả sự hiện hữu và không hiện hữu. Gọi
nó là Thượng Đế hay A Di Đà, hoặc Tối Cao, hoặc vĩnh cửu và vô tác, định
luật bất biến, vô-thân,
không có gì hay không hiện hữu, chỉ
vì nó không vững chắc hay
không có vật chất, cũng không cảm nhận thực được bằng các giác quan, nhưng
nó có đó, nó
là tâm linh và có thể được khám phá ra bằng tâm tri ;
nó có đó, tiềm ẩn trong mọi hiện
hữu tự nhiên bất biến
cũng như thường tình cần thiết của thể chất; nó là quy luật và và quy chế cho tất cả mọi thứ kể cả những ý nghĩ.
Nó có mặt ở
khắp nơi, ở mọi thời điểm trong vũ trụ, vô hình, rất tinh
tế, như một hương thơm thấm
đẫm căn phòng. Bất cứ cái gì làm
cho sự xuất hiện của
nó như một thực tại cụ thể là nhờ ảnh hưởng từ hương thơm của nó và không gì có thể thoát khỏi cái ảnh hưởng đó. Không những
tự nó hiện hữu, mà
còn là từ
trong thâm cung của sự
hiện hữu; nó
là cái
mang hình thể tuyệt đối đến cho chúng sinh, khuôn đúc lại và xác định nhân sinh theo những trạng huống khác nhau.
Ta
có Vô Lượng Quang A Di Đà trong hai khía cạnh, một là sự hình thành của hiện
hữu đặc thù và khía
cạnh kia là thể luật
chung của các loại phổ quát. Cái riêng
biệt là việc nhận thức được luật phổ quát;
và cái
định luật phổ quát lại tạo dựng
một loại đặc thù riêng biệt, và cho nó một cá tính nhất định. Không
có cái này thì không có cái kia. Đặc
thù nhất là trạng
thái của vô minh; bởi vì tất cả đời sống đều bắt đầu từ vô minh; mà sự phổ
quát không thôi là sự hiện hữu chưa được công nhận; nên nó có
vẻ như là không có sự tồn tại. Do
đó việc hưởng thụ cuộc sống không phải là sai lầm và tình yêu vợ chồng không phải là nguyên nhân cho sự ăn năn, hối cải, nếu là
tình yêu đúng chỗ, chân thật, không ngăn cản được và làm
cho mỗi cá
nhân sẵn sàng chịu
đựng những gánh nặng của người kia.
"Đức
Phật không đề cập tới Thượng
Đế, vì cái định luật đúng chuyển hóa trong sự Giác Ngộ không phải là một người nào
đó, không phải là một thực thể, không phải là một bản ngã, thậm chí cũng không
phải là một hồn ma.
Khi không có hồn ma,
thì cũng chẳng có một hồn Chúa”
Ông Charaka nói: "Bây giờ tôi hiểu được hình ảnh của
Đức Phật với hai người hầu cận đứng hai bên,
Một người như là Tình Yêu
Đặc biệt ngồi trên lưng voi và người kia như là Trí
Huệ Phổ
quát ngự trên con sư
tử. Ông Ananda, người học trò
yêu thích phục vụ, và ông Kashyapa (Ca Diếp), người
đệ tử tinh thông triết
lý
đã
theo kịp ông thầy của họ và nắm được cái tiêu biểu trong học thuyết
của Thầy từ hai khía cạnh đối nghịch và tương phản lẫn
nhau. "
"Những
người nào tự hành xác họ," Ông Açvaghosha nói tiếp, "là đã không hiểu giáo lý. Chúng ta
không phải là những
linh hồn - bản ngã. Vì
vậy khi tư tưởng một cá nhân đã
thoát đi, nếu cho đó là sự cứu
rỗi của linh hồn - bản ngã, thì
đó là một tà giáo và cũng là một ảo tưởng. Chúng
ta phải chung lưng lại với nhau và mọi người phải làm việc để cứu độ nhân loại. Vi vậy, tôi thích so sánh học thuyết của Đức
Phật như một
con tầu lớn hay như một cỗ xe lớn, Mahâyâna - trong đó có đủ chỗ cho tất cả mọi tầng lớp
đám đông chúng sinh và chính chúng ta những người chèo lái phải cứu vớt
hoặc phải cùng tan biến với họ.
Ngự y
Charaka đưa tay ra, nói:. "Xin
cảm tạ Ngài, kính thưa Ngài, về việc đã soi
sáng cho tôi. Tôi đã đi tìm
sự an bình cho
thâm tâm ở một tu viện,
nhưng lòng yêu thương cuộc sống, lòng yêu thương Thượng Đế, lòng yêu thích kiến
thức, tình yêu trong trái tim tôi, tất cả đã đẩy tôi trở
lại với thế giới. Là ngự y, tôi đã được xem là hữu ích cho nhà vua Kanishka, có
thể cũng còn là một người bạn, và là một đệ tử của Như Lai. Vấn
đề ở trước mặt là,
không biết là việc tôi tiếp tục có mặt trên
thế giới này, tiếp
tục là một gia trưởng, tiếp tục được phép có cá tính riêng, có ái dục, có thực trạng, có sự chia sẻ trong cuộc sống bên lề hoàn cầu bao la, có tâm linh, và lý tưởng, có đúng cho tôi không."
"Đừng
coi thường cá tính khác
biệt, ái dục, và
thực trạng,"
Ông Açvaghosha trả lời. "Trong cái cơ thể vật chất chân lý
tốt đẹp,
tình yêu và tính chân thực
đã thành hiện thực.
Sự
hiện hữu nếu
nó chỉ là sự tồn tại, có số
lượng mà
không có phẩm chất,
là vô giá trị và đáng khinh bỉ. Người
khôn ngoan xem thường
nó. Ái dục, nếu
không có giá trị tâm linh, thì
là thô bỉ và có vẻ
vũ phu. Nhưng sự hiện hữu tự nó không phải là sai lầm, cũng như sự gợi cảm không phải là không có ićh .
Ái dục, trong cái
tính chất
đặc thù của nó,
nếu là khát vọng thúc
đẩy thật tình, trở nên hiến
dâng trong tâm linh. Hãy nghĩ xem một nụ hôn của tình yêu đích thực là thánh thiện làm sao; liên hệ chồng vợ là thiêng liêng như thế nào. Trong
tính chất đặc thù tính phổ quát phải được nhận rõ, sự tốt đẹp trừu
tượng chỉ trở nên
rõ ràng trong những
bước thăng
trầm của cuộc sống thực tế. "
"Nếu tôi có thể phục vụ Đức Phật như một gia trưởng, tham
vọng cao nhất của tôi sẽ là em rể của Vua Kanishka," Charaka trả lời.
"Tôi biết điều đó," Açvaghosha nói với một nụ
cười, "vì
những cảm xúc trong tim của
bạn đã phản ảnh ra trong
đôi mắt của bạn. Hãy
về nhà chào đón em gái của
vua với một câu nói của Đức Thế Tôn, và khi bạn đã thành hôn cầu
cho hạnh phúc của bạn được tương xứng với công đức của bạn, hay thậm chí còn nhiều hơn và tốt hơn. Học thuyết của Đức
Phật không bị tuyệt diệt, không phải là hư vô, mà là sự giải thoát trái tim con người
ra khỏi những
xiềng xích của sự ích kỷ và ra
khỏi sự cô lập của một
bản ngã riêng
biệt. Nó không phải là sự đè nén hay xóa bỏ tình yêu, niềm vui, và những quan hệ gia đình, mà là sự hoàn
hảo và thánh hóa; không phải là một sự chấm dứt của cuộc sống, nhưng là sự chấm dứt của ngu dốt, lười biếng,
ý xấu. Vì sự giác ngộ, mới chính là mục tiêu và sự kết thúc của đời sống.
Sau
một lúc im lặng ông Açvaghosha trầm ngâm nói thêm: "Sự
thật càng được truyền
rộng ra, các mối quan hệ và điều kiện càng được chuyển
hoá từ sự Giác Ngộ. Ngay
cả những sinh vật ngu đần và có bản chất vô tri vô giác cũng khao khát cho sự giải thoát sắp đến với họ.”
"Lời
dậy dỗ của Ngài đã
mang phúc lợi cho tôi", vua Kanishka nói với nhà triết học, rồi quay qua vua của
nước Ma Kiệt Đà, ông
nói tiếp,
"nhưng người bạn cao quý của tôi và cũng
là ông chủ nhà này
vẫn là con nợ của
tôi. Vì ngài Açvaghosha tuổi đã cao thấy mình không thể theo tôi đến Gandhâra,
cho nên vua Magadha đây có bổn
phận phải thay thế vào đó
một người khác tôi có thế chấp nhận được. Bây giờ, có một cách giải quyết các bó buộc của ông với
tôi. Cách giải quyết đó có thể
thực hiện được nếu con gái của ngài, công chúa Bhadraçrî bằng lòng chấp
nhận lời cầu hôn của tôi và
đi cùng với tôi về
Gandhara như
là người vợ và nữ hoàng của tôi! "
" Người bạn tháng tám của tôi," vua Sabahu của Magadha
trả lời: "Ta biết nàng công chúa kính phục bạn vì
nghĩa cử anh hùng bạn
đã biểu
lộ ra trong trận chiến, sự khôn ngoan bạn đã thể hiện trong những buổi
họp thảo luận, và lòng khoan dung mà bạn đã đối xử với kẻ thù đã bị bạn đánh
bại. Cô ta thấy ở trong bạn không những chỉ
riêng lý tưởng cho hoàng
tộc mà còn phục hồi được
tài sản của cha cô ấy, bạn xứng đáng với lòng biết ơn chân
thành nhất của cô ấy. Nhưng không
ai khác ngoài chính bạn là người
làm cho lòng
ngưỡng mộ của cô ta nẩy nở thành tình yêu nồng nàn và sự tận tâm dâng hiến như của người vợ đấy. "
http://www.sacred-texts.com/bud/ami/ami10.htm
Phỏng dich January 2015 by Kim Morris
************************************************************
Xin mời đọc nguyên bản và các mục kế
tiếp trong link :
" Người bạn tháng tám của tôi" có nghĩa là khả kính. August có nghĩa
ReplyDeletelà hoàn hảo, tốt, khả kính.