Tuesday, November 5, 2013

Bạn Thích Màu Sắc Nào Nhất ?


 Xin chia xẻ một bài giảng rất hay của Ông Alan Watts, a British philosopher of 20th century, một người nghiên cứu Buddhism, Hinduism không mê tín dị đoan. Kim lược dịch chứ không theo đúng từng chữ một.

Trung Đạo trong Phật Pháp:The Middle Way

Đạo Phật bắt nguồn từ Ấn Giáo , phát triển ra ngoài xã hội của nước Ấn Độ truyền bá qua các lục địa Á Châu sau khi Đức Phật lià trần.
Đạo Phật là một nhánh của Hinduism không phải là một tôn giáo tin vào hay tôn thờmột đấng tối cao và tuân theo vào một luật lệ hay phong thức lễ nghi tôn giáo nào. Tuy nhiên cũng có nghi thức thờ phượng khác nhau tuỳ theo văn hoá của các quốc gia. Phật Pháp là mộtphương cách hay method chuyển hoá cái ảo tưởng về sự hiện hữu của cá nhân, bản ngã. Theo Alan, Đức Phật là một nhà tâm lýchữa trị bịnh tâm thần cho quần chúng. Chứng bịnh về không bao giờ hài lòng với thực tại, luôn luôn lo sống dựa vào quá khứ rồi lại lo cho tương lai mà không hề để tâm tới thực taị. Bịnh tâm thần này là bịnh sống trong ảo ảnh cho ta là một trung điểm trong một bịch bằng da, biệt lập hẳn những gì bên ngoài cái bịch da này. Cách chữa bịnh của Đức Phật là để giúp chúng ta chuyển hoá cái cảm tưởng đó.

Chữ Buddha bắt nguồn từ chữ Budh of Sanskrit (Bụt theoThầy Thích Nhất Hạnh.) Chữ Budh có nghĩa là tỉnh ngộ, khám phá ra chính mình là ai.
Trong Hinduism Buddha hay Buddhas là những vị cao hơn cả những vị Trời, Thánh, Divas, Thần...vì những vị này hãy còn bị vướng trong vòng luẩn quẩn của sự ham muốn nắm giữ quyền lực...

Đức Phật là người tỉnh ngộ, nhận thức ra tính nhị nguyên của mọi vạn vận trên thế gian này và cả vũ trụ.
Khi ta theo đuổi sự ham muốn toàn thiện thì ta không thể bỏ qua các trái ngược nó gắn bó trong đó. Ta không thể chỉ nhận lấy mặt phải của đồng tiền mà vứt bỏ mặt trái của nó. Cũng như ta chỉ thích màu đỏ không thôi, nhưng không thể không thích màu tím và xanh dương ẩn trong màu này. Nhưng thật ra trong sự hỗn hợp màu sắc này, màu trắng là nền tảng của tất cả.

Sau khi từ bỏ sự sung sướng hạnh phúc tràn trề trong hoàng cung, Đức Phật dấn thân vào một kinh nghiệm thử thách của phái tu khổ hạnh, dày vò thể xác để tìm hiểu thân thế này là gì, ta là ai. Ngài đều thấy không có một câu trả lời đích thực; trong lúc đuối sức nhất, Ngài tỉnh ngộ ra và thấy được chân lý của sự sống. Ngàiđã tự sáng tạo ra một triết lý sống .Đólà con đường Trung Đạo. Con đường trung đạo áp dụng vào tất cả sự suy nghĩ cũng như trong hành vi bất cứ thời điểm nào.
Trong thời Đức Phật Ấn Độ không có cách viết chữ nên Ngài hay thuyết giảng bằng những câu kệ từng nhóm cho dễ nhớ.

Bài giảng đầu tiên là Tứ Diệu Đế:
1. Dukka:  Cuộcđời luôn luôn có nhiều vấn đề phải giải quyết, mà rồi cũng không thoả mãn nên đâm ra khổ não. Có ba trạng thái trong cuộc sống: Không hài lòng, không trường tồn, và không thật. Frustration, impermanent, and non-self.

2. Trishna: có nghĩa là ‘ khát’, khát khao, lựa chọn theo ý muốn những cái mình ưa thích mà bỏ đi không để ý tới mọi việc xung quanh nó.

3. Nirvana:có nghĩa đen là thở ra ngoài. Nếu ta cố cầm giữ hơi thở, ta sẽ chết vì ngạt. Nếu ta thở ra sự sống sẽ trở lại. Nirvana, hay niết bàn là trạng thái thở ra, buông xả. Trút gánh nặng.
4. Marga hay Magga: là con đường, the Noble- Eight- Fold- Path: Bát Chánh Đạo.

Chánh Kiến : right view: Trong vũ trụ này tất cả đều liên quan nương tựa tới tất cả mọi thứ xung quanh. Interdependency.
Chánh Nghiệp: Right action: Các Phật tử phát nguyện giữ 5 giới và quy y Phật Pháp Tăng.
Chánh tư duy, Chánh niệm và Chánh định: hãy nhớ là...trong Hinduism mỗi một phần của God Hindu là chính ta. Hãy thức tỉnh. Be alert. Trở lại thực tại, Here and Now. Be aware. Ta biết ta là người chứng kiến những gì đang chuyển động xung quanh mà ta không chuyển động theo. Let it be. Không có sự khác biệt giữa người biết và cái được biết. Cái cảnh và sự thấy, tiếng động và sự nghe chỉ là một.

Hãy nhìn hình ảnh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên toà sen không lay động nhưng Ngài biết tất cả những gì xảy ra mà không hề phân biện sự biết và cái được biết. Tất cả là một.
Khi đạt tới trạng thái Giác Ngộ, hay là Niết bàn, không nghĩa là trở thành cô độc lẻ loi, mà là trạng thái trở về với thực tại cuả toàn bộ mà ta là một phần trong đó...Khi ta cảm nhận được điều này tự nhiên ta có một cảm thông từ bi với tất cả, ta khổ theo cái khổ của vạn vật, ta vui trong cái vui của vạn sự. Gọi là Compassion.
Nirvana là VOID , một ‘free concept” là sự quay về với chính ta, với chính cái tính Không.
Đức Phật ví sự giảng dạy của Ngài như là một con thuyền đưa người sang bờ giác ngộ. Nhưng con thuyền này phải có người lái trở về bến cũ đón thêm người sang bờ bên kia. Alan dỉ dỏm nói người đưa thuyền hay các nhà truyền Pháp không nên lấy tiền của hành khách nhé. Ai cũng có thể thành Phật được tức là ai cũng có thể đạt tới tình trạng giác ngộ như Phật.
Nghe kĩ vào đoạn cuối xem Alan kết thúc bài giảng . Khó dịch sang Việt ngữ.

Enjoy
With metta

Tuesday, July 2, 2013

Cảm Nghĩ về Chuyến Hành Hương Tứ Động Tâm – Ấn Độ


 
October 2010

Các Bạn Mến, có gì thiếu sót và không đúng thứ tự xin cho biết.

Trong email trước kb viết bằng tiếng Anh là do cảm xúc tự nhiên về một hành trình tâm linh. Thế nên khi diễn tả, kb cảm thấy Anh ngữ có hiệu lực trong vấn đề này nhiều hơn là Việt Ngữ. Xin quí bạn thông cảm.

Kb có duyên và quyết định nhanh chóng khi nhận được tin tức có một chuyến hành hương với nghi thức cầu nguyện hơn là du lịch sang Ấn Độ nhờ một vị chuyển thơ mời qua net. Nhưng thực ra nếu không có các Phật tích thì Ấn Độ không phài là nơi để đi du lịch.

Tuy chưa từng biết gì về Thầy Thích Tánh Tuệ hay Mắt Thương Nhìn Đời ở CA nhưng Kb không hề có sự dè dặt khi ghi danh tham dự cuộc hành trình này.

Kb rời CA vài năm trước nên chỉ theo dõi sinh họat cộng đồng bên đó qua net thôi. Vài năm về trước Kb cũng đã từng được vài bạn rủ đi hành hương Ấn Độ nhưng ngại vì rất sợ cảnh tả cực nhọc qua kinh nghiệm của những người đi trước.

Thế nhưng do sự thành kính nhớ ơn Đức Bổn Sư Thích Ca, Kb cảm thấy hồ hởi tham dự năm nay mà không có một mảy may lo ngại gì cả. Kb lại cố lôi cuốn rủ thêm một ông bạn đi theo nữa. Kb ngại rằng không đi năm nay chắc đâu có dip khác?

Người ta thường nói có duyên lắm mới tới được Tứ Thánh Địa của Phật:

Lumbini: Nơi Đức Phật ra đời
BodhGaya: Nơi Đức Phật thành đạo
Kusaranasi: Nơi Đức Phật chuyển Pháp luân cho 5 anh em Kiều Trần Như
Kushinagar: Nơi Ngài nhập Đại Niết Bàn.

Khởi hành 10/16 - trở về 10/31/2010

Nhờ sự hướng dẫn kinh nghiệm của Thầy T́anh Tuệ, và sự chăm lo chu đáo cho đoàn nên chúng tôi thấy rất là có phước. Thầy cho biết 50 người ghi tên, rồi rốt cuộc chỉ có 22 người có duyên nhập đoàn. Một cặp vơ chồng trẻ nhiệt tình từ Mỹ về VN đem mẹ già 80 tuồi cùng một bà cô theo đoàn. Sau khi kết thuć họ lại trở lại VN trước khi về làm việc lại tai Mỹ. Có một cô theo Công giáo nhưng đi theo hai vợ chồng anh chị đạo Phật. Theo cô ta kể, tuy cô baptised Thien Chua Giao nhưng cô có duyên với Đạo Phật hơn. Cô quỳ lạy, đọc kinh và hiểu Phật Pháp khá tinh tấn lắm.

Trong suốt chuyến đi, các Phật tử rất là nhiệt tình, thành tâm, hiểu đạo nên không có gì khúc mắc bất bình chi cả. Điều này Thầy rất hài lòng.Thầy Tánh Tuệ có một tour guide, tài xế xe bus và người phụ tá, họ là ngườì Ấn Đô hay còn gọi là Indies.Thầy mời thêm một thầy Lama Tây Tạng và một ni cô VN đang tu học tháp tùng pḥu với thầy làm lễ và lo cho đoàn đầy đủ. Thầy lại là một nhân vật văn hoa đa dạng cởi mở, vui vẻ, giảng Pháp rõ ràng. Cả đòan ai cũng đóng góp văn thơ, ca nhạc truyện trò vui vẻ, nên quên giờ ngồi lâu trên bus.

Nói chung các hotels và phương tiện xe bus chuyên chở không có gì để phàn nàn cả. Tuy tháng mười nhưng khí hậu bên Ầ́n vẫn còn oi bức như ở VN. May vừa hết mùa mưa chợ búa còn có ít rau như bông cải, cà tím, cà chua, dưa chuột, rau xanh, mướp bí...cho nhà hàng cung cấp cơm chay cho khách.

Nên nhớ quí vị ạ, khi sang nước Ấn, nơi địa ngục trần gian này, các bạn phải, khi bước lên máy bay tại phi trường USA, bỏ tất cả những tiện nghi của nước Mỹ lai sau lưng và chuẩn bị tinh thần cho chuyến đi vào lịch sử. Sau bao nhiêu năm tôi ngại tham dự; bây giờ tình thế khá hơn, các hotels và tour bus có máy lạnh đã làm giảm sự khó nhọc của hành trình này cho tôi.

Đến nơi New Dehli Airport, chúng tôi được tiếp đón và trao vòng hoa giao duyên. Ngủ qua đêm ở Hotel và sau khi ăn sáng, chúng tôi đi thăm Khải hoàn Môn, đền Tajmahal. Chiều tối khăn gói lên tầu xe lửa đi Varanasi hay thành Vương Xá. Sáng vô hotel tắm rửa rồi đi thăm viện bảo tàng nơi lưu giữ xá lợi của Đức Phật.

Chúng tôi ngồi trước tháp vàng, do vương quốc Thái Lan tặng, tụng kinh và thiền 10 phút. Sau đó thăm nới đức Phật gỉang pháp cho 5 anh em Kiều Trần Như, một ngôi đền của Thái Lan.Qua ngày tiếp chúng tôi lên xe tour bus sang Xá Vệ Thành.

Thầy kêu chúng tôi dạy thật sớm 5 giờ sáng để ra kip̣ đón bình minh trên sông Hằng. Trước kia tôi chỉ tưởng tới sông Hằng dễ dàng, và sẽ thấy cảnh như qua hình trên net. Nhưng khi xe bus drop chúng tôi xuống, họ phải đậu xe ngoài phố cách sông một con đường. Lúc trời còn loạng choạng tối, phố xá chen chúc vì rất nhiều dân Ấn cũng đổ ra bến để ra sông cầu nguyện. Vì vậy chúng tôi phài cố gắng đi nhanh, mắt chăm chú nhình xuống lộ, để khỏi đạp lên các phân uế của mọi loài. Mùi hôi tanh của tất cả mọi phế thải cuồn cuộn tuy trong một buổi sáng tinh sương. Các bà, các cô người địa phương mặc áo Sarhi nhưng đi chân đất hồ hởi lũ luợt đi về hướng sông Hằng.

Qua sang khỏi con đường đông nghẹt, chúng tôi được dẫn qua một khu nhà với ngõ hẹp, và lại phải coi chừng khỏi dẫm lên ćac bãi "mìn mềm." Tới nơi, chúng tôi phải leo xuống hơn chục bậc thang rồi mới tới thuyền để leo vô ngồi. Thật là phải qua 3 cửa ải mới tới nơi linh thiêng.

Hôm đó, nước thuỷ triều lên cao, không có thiêu xác đang tiến hành, nhưng chính mắt tôi thấy hai xác chết bó trôi ngang. Chúng tôi lên thuyền, Thầy tụng kinh Vãng Sanh, cầu cho vong linh người đã khuất, rôì mọi người thả nến trên sông. Khi Thầy lên tiếng tụng bài kinh, tôi không cầm được xúc cảm và bật lên nức nở, cảm thấy lòng quặn đau. Nếu được và không làm cho bạn cùng đoàn cảm xúc, tôi muốn khóc to hơn lên và khóc cho hết nước mắt lúc bấy giờ. Đến vài tối sau, nghĩ đến cảnh của dân tình nghèo khổ, tôi lại rướm nước mắt, tim đau nhói. Và vì thế tôi khuất mặt trong các chương trình phát chẩn sau này. Tôi thật là người dễ khóc.

Sông Hằng không phải là Phật tích. Nhưng khi Đức Phật giảng Ngài hay dùng cát sông Hằng làm tiêu chuẩn đo lường khổ aỉ trần gian. Ngài cũng từng tắm nơi đây. Nhưng chỉ có một khúc sông này coi là linh thiêng nhất. Người ta xuống tắm và mang nước sông về uống.

Sau khi rời sông Hằng chúng tôi khởi hành đi Sravasti, Thành Xá Vệ̣, đến thăm nơi Đức Phật thi thố thần thông với ngoại đạo, Kantamjetiya, Kỳ viên tịnh xá, Jetavana, thăm nhà trưởng giả cấp Cô Độc, Anathabindika. Nên nhấn mạnh là kiến trúc thời Phật Thích ca rất kiên cố, phần lớn là gạch nung đỏ, chồng chất làm nhiều lớp rất dày để chống nắng, tránh mưa và lạnh.

Kỳ viên tịnh xá thật là êm ả, thanh tịnh. sạch sẽ. Xin ghi chú là tất cả các thánh địa do người Hindu cai quản. Tới nơi khi trời mới sáng đã có một đoàn chừng 300 Sư Tăng, và Phật tử Sri Lanka trong đồng phục trắng tinh đang đi kinh hành tụng niệm nhẹ nhàng.

Đoàn chúng tôi tới cội Ananda Bodhi tree, đi diễu ba vòng và toạ ngồi dưới cây tụng kinh và thiền định.Sau đó, chúng tôi đi kinh hành tới thăm tịnh xá cuả Đức Phật, lễ lạy và thiền định. Nơi đây đức Phật và tăng đoàn của Ngài đã trú ngụ rất nhiêu năm. Tại đây Đức Phật đã giảng nhiều bài kinh quan trong, như Kinh A Di Đà. Phật tử hành hương trải hoa đầy trên nền để dâng lên lòng tri ân với Ngài. Gần nơi tịnh xá của Đức Phật là tịnh xá của Ngài Ananda. Trước bên kia là một giếng nước khá to, mặt giếng được rào kín. Phần lớn các thánh địa bị Hồi quân tàn phá, chỉ còn nền gạch trơ truị thôi.

Nói chung nơi các vườn của tăng đoàn thới bấy giờ có nhiều toạ cụ xây bằng gạch đỏ, chắc để cać đại đệ tử ngồi thiền hoặc để thuyết pháp giảng luận với quần chúng. Sau đó chúng tôi đi thăm ngôi nhà của Ngài Cấp Cô Độc. Bây giờ chỉ còn là nền nhưng vẫn còn vẻ đồ sộ. Dưới nền nhà là hai hố sâu, đó là nơi Ngài chứa các đồng tiền vàng dùng để rải kín vườn mua lại của vua để làm tịnh xá cho Phật và tăng đoàn.

Trở lại nơi cội bồ đề do Ngài Ananda trồng để tưởng nhớ tới Đức Phật một khi Đức Phật đi giảng Pháp nơi xa.Trong lúc đoàn chúng tôi ngồi tụng kinh và thiền định có xảy ra hai sự kiện khác thường. Sự kiện này, một là do chính tôi chứng kiến và quan sát. Một là xảy ra ngay cho ông bạn đồng hành.

Trên đường phố, trong công viên Ấn Độ, có nhiều súc vật như chó, heo, dê, bò trâu, gà...sống lẫn lộn với người dân một cách hiền hoà như một đại gia đình.

Khi bước tới cội cây bồ đề, tôi có thấy vài chú chó lảng vảng trong đó. Sau khi hết tụng kinh và bắt đầu thiền định, tôi thấy một con chó đen, có vài điểm lông trắng, rong ruổi bước tới trước hàng ngồi của sáu phật tử hàng sau cùng. Trong đó có tôi ngồi chính giữa. Anh chó này đến qùy hai chân sau, trước một Phật tử ngồi bên trái của tôi. Anh ấy lấy tay trước khều mặt cô lấy sự chú ý, rồi để tay của anh lên tay lòng bàn tay trái của cô một vài giây lâu, sau đó anh ta đổi sang tay phải thiền vài giây với cô ta. Vẻ mặt của anh chó này rất là hiền từ và sống động lắm. Anh chuyển sang một Phật tử cuối hàng ,dừng đó không lâu rồi trở lại nơi bà ngồi bên cạnh bên phải tôi. Bà này là mẹ của cô ngồi bên trái lúc nãy. Anh chó tới trước bà, cúi đầu kính cẩn, dung mạo rất thuần thục,bà vuốt mặt anh, cầm tay anh chú niệm vài giây nữa. Anh lại đi ngang tôi, không dừng mà tiến tới cô nơi đầu hàng và cũng ngồi thiền một chút rồi đi ra ngoài.

Các bạn nghĩ thế nào? Có phài đây là một luân hồi dữ kiện hay một ESP giữa vật và người?

Trong khoảng thời gian thiền này, phiá hàng đầu tiên là nơi ông bạn đang ngồi. Sau này anh ấy kể lại trên xe cho cả mọi người cùng chia xẻ kinh nghiệm hiếm có. Là khi đang chăm chú thiền định, anh thấy trước mặt một bình bát đầy nước, trên mặt nước có bọt váng bèo lăn tăn. Váng bèo này từ từ tan đi, còn lại các hột như hột tiêu đen rồi dần dần các hột này lắng xuông tan đi mất và nước trở thành trong. Cùng lúc đó, anh càm thấy mặt đất rung động như có động đất xảy ra dưới chỗ ngồi. Khi ấy Thầy giải thiền. Anh kể là anh rất lơ là do dự, không muốn đi chuyến hành hương này lắm, nhưng bị tôi thúc đẩy, sau cùng thu xếp công việc nhà êm thắm nên mới đi được.Tiếp tục cuộc hành trình sau khi rời sông Hằng. Chúng tôi lên xe lửa đi về phía bắc của Ấn Độ nơi Tứ Động Tâm mà người con Phật có duyên mới tới được.

Qủa vậy, muốn đến nơi đó, từ thành Xá Vệ, chúng tôi phải đi xe lửa vào buổi tối, ngủ đêm trên tàu. Chuyện ngủ trên tàu không phải là trở ngại. Khi đã lên trên băng và có giường ngủ là yên trí. Khổ ải là đi bộ từ ngoài đường vào nhà ga trong bóng tối không đèn sáng, lo cho hành lý chuyển lên tàu hoàn tất. Có vài vị mang theo đèn pin và chúng tôi lại phải chăm chú không dẫm lên phân uế. Chuyến xe lửa dài khoảng 10 tiếng đồng hồ. Thầy Tánh Tuệ, vị La Ma và Ni Cô cùng người tour guide lo hết mình cho chúng tôi được an tòan. Các người Ấn lao động khuân vác hành lý cũng rất đắc lực vì đó là công việc quen của họ. Trông vậy chứ cái cổ gà gầy gò của họ có một sức mạnh khuân vác rất hay. Tới sáng chúng tôi vào khách sạn để thay quần áo,ăn sáng và nghỉ ngơi vài giờ. Tôi phải lấy khăn uớt lau va li đầy bụi đường trước khi mở lấy quần áo ra thay.

Ngay hôm sau sáng sớm chúng tôi lên đường bằng tour bus về hướng Lumbini, nơi Đức Phật đản sanh. Chuyến xe bus đường trường rất dài. Qua nhiều làng phố tiêu tàn bui bậm, bùn lầy. Người dân phế thải tự nhiên bất cứ chỗ nào, không cần che dậy.Người dân Ấn Độ không hề được chính phủ lo cho đầy đủ kể cảnhững phương tiện căn bản về nhân bản của con người.

Đường xá, cầu qua sông rất hẹp. Những con đường vá víu, lồi lõm,hàng quán nhô nhấp. Thế mà chúng tôi không quan tâm, không hề lo sợ tai nạn xảy ra. Vì mỗi ngày trên xe, chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình bằng tụng Chú Đại Bi. Vì̀ Thầy cùng Phật Tử sinh hoạt ca hát, chuyện trò nên quên không để ý bên ngoài đường. Có khi chúng tôi chứng kiến hai xe đi ngược dòng, tửơng đâm đầu vào nhau thế mà tài xế họ lách qua như không có chuyện chi. Chúng tôi chỉ biết thở phào. Quả dân Ấn lái xe lão luyện. Cả một cuôc hành trình không hề thấy một tai nạn xảy ra dù cho xe lớn hay nhỏ, hay người bộ hành, xe đạp.Tất cả được tôn trọng trong khoảng cách của họ khi di chuyển trong thành phố. Cả những con lừa, con bò, và trâu hay dê, cùng khách bộ hành ung dung đi lại, các xe lớn sẽ tránh không đụng tới họ. Anh tài xế tour bus của chúng tôi luôn luôn bấm còi cho chắc ăn.


Có nhiều chặng trên đường mùi khai nồng của phố xá quyện thêm mùi bụi tung lên hai bên đường vẫn lọt vào xe qua khe cưả sổ.Chúng tôi ngó qua cửa xe thăm quan. Nhà cửa tệ hại, chỉ là các mảnh gỗ, mái tranh, vải vóc vụn vá víu che đậy. Cónhà xây bằng gạch nhưng chỉ là bốn bức tường trống rỗng. Vì quá nghèo, không đủ vật dụng xây cất, nên các nơi thờ phượng và các tượng của họ cũng rất thô sơ, trông thảm não. Cả làng mới có một giếng nước. Vách tường được bao phủ bằng các bánh phân bò, một phương cách phơi khô. Họ dùng phân bò để thay cuỉ nên có khi cơm hay thức ăn có mùi này. Có nơi các súc vật như heo rừng, trâu bò, dê, chó xúm quanh các ổ rác moi móc. Không hiểu rác ở Ấn Độ có còn gì để mà moi nữa. Dân tìnḥ sống chung với súc vật và rác như một đại gia đình. Và đôi khi trên cạnh đống rác, một em trai nằm quay ra ngủ êm ru. Hoặc có nơi một xác chết của một người đàn ông khô cằn, một chân co rúm lên không. Có lúc không thể chịu được tôi phải kéo màn cửa xe để khỏi nhìn thấy quang cảnh chật vật của người Ấn. Họ cũng từng là người đồng hương với Đức Phật, hoặc biết đâu họ cũng từng là bà con của mình đời kiếp trước chăng? Phải chăng người Ấn Độ chịu đựng số phận của họ vì những người Bà La Môn cao tộc phán cho họ rằng đó là nhân quả họ phài chịu vậy cho hết kiếp? Vì thế họ bình thản sống qua ngày, không còn cái khổ nào làm họ khổ hơn nữa. Thật phải công nhận người Ấn có một tâm linh siêu thực.

Suy nghĩ lại, trong Kinh Phật giảng phải quán các giác quan của mình, tất cả chỉ do thọ và tưởng mà ra. Tất cả sẽ qua đi, và trở thành KHÔNG. Có gì mà lo, mà sợ, mà vương vấn? Tôi sực nhớ lại một buổi thiền trong chùa bên USA nơi tôi hay tham dự,một vị ni cô chạy xuống bếp vặn quạt lên thật mạnh để xua mùi chiên của tempura vì sợ làm phiền đến các thiền sĩ trên chánh điện.
Chúng tôi tới Kushinagar đảnh lễ Đức Phật, nơi ngài nhập Đại Niết Bàn. Hoa sen và y trang sẵn sàng, chúng tôi sắp hàng hai, kính cẩn bước vào trong điện, đắp y lên bức tượng nằm của Ngài, rồi diễu ba vòng quanh tượng, niệm Nam Mô Thích Ca Bổn Sư Mâu Ni Phật. Trong cùng lúc đó có nhóm các vị sư Tây Tạng, nhóm Phật tử Đại Hàn (?), ba là nhóm chúng tôi, đồng quỳ dưới sàn. Trong cùng một lúc tất cả mọi người đều tụng danh hiệu Ngài, tiếng hùng dũng của các sư tây Tạng, cùng nhị̣p điệu trầm bổng của tiếng Đại Hàn và tiếng chuông, khánh của VN. Tất cả hoà hợp thành một âm thanh của bi, trí, dũng càng lúc càng to rồi chấm dứt.



Ngay lúc này tôi cảm thấy có một yên tĩnh tuyệt đối, tuyệt diệu. Các nhà sư Tây Tạng giảng đó là một hoà hợp tột đỉnh của âm thanh và tính "không", một trạng thái quân bình, equanimity, vi tế.Chúng tôi thay nhau đảnh lễ Ngài lần cuối, mắt ai không nhoà lệ? Một Người Cha nằm đó, bao con thương nhớ. Ngài chắc cũng biết các con thương kính lòng từ bi của Ngài, muốn về chung nơi Ngài ngự, nhưng sao chúng con còn trầm luân mãi mãi nơi chốn ta bà này? Sau đó chúng tôi đi thăm khu vườn xung quanh. Hai cây Sa La còn đó, nhưng muà này không có hoa tuy rất xanh lá.
Những cảm xúc nơi đấy đã được làm nhẹ bớt khi chúng tôi tới nơi Đức Phật đản sanh. Trong đó là một ngôi nhà bảo tồn di tích dấu chân đức Phật. Cây Vô Ưu khi mẹ đức Phật tưạ dưới đã được Ấn Độ tặng cho Nhật Bổn. Bến ngoài là một cột trụ do vua Ashoka xây dựng để tôn công đức của Đức Phật. Chúng tôi lưu lại đây một ít lâu, mỗi người tìm một vị trí để thiền định dưới các cội bồ đề. Ngoài nhóm chúng tôi, có vài nhóm của người Thái, SriLanka, cũng tới bao quanh cột trụ tụng kinh và nghe Sư Tăng của họ giàng Pháp.

Thầy Tánh Tuệ hướng dẫn chúng tôi thăm viếng một vài ngôi chùa VN gần đó. Chùa Linh Sơn sẽ khánh thành tháng 11 2012 và sẽ thỉnh Phật Ngọc về đó nữa. Trên đường hướng về Bồ Đề Đạo Tràng, chúng tôi ngủ đêm tại chùa Kiều Đàm của các ni cô từ VN sang tu tập. Một công trình xây cất rất bao la, kiên cố, có tháp cao, tường đá khắc Kinh DP Liên Hoa. Phần lớn nhân công là những anh Việt Nam sang làm với thời hạn tiêu chuẩn 3 tháng visa. Ngày khánh thành cũng khoảng tháng 11 năm 2012. Chuà VN Quốc Tự khá uy nghi và có nhiều đặc tính VN, với vườn trúc, các tượng voi, hạc, nai, lối đi quanh co...

Tiếp tục hành trình, nơi chúng tôi dừng chân hai ngày gần nuí Linh Thứu. Sáng sớm chúng tôi lên xe hết gần 10 phut. Đừơng lên núi được sửa sang với các cấp bậc thang thoai thoải khá dài. Vậy mà chúng tôi phải dùng gậy leo lên, và dừng chân hai lần trước khi lên tới đỉnh. Trên đường lên cao, các bạn thấy hình một tảng đá chơi vơi trên núi có hình mỏ chim, giaỉ thích sao gọi nuí là Linh Thứu. Mặt trời đã bắt đầu lên cao. Chúng tôi dâng hoa, quì lạy và tụng kinh. Sau đó chúng tôi tìm một chỗ ngồi tụm lại thực tập thiền 10 phút. Núi Linh Thứu nơi Đức Phật giảng một bộ kinh Đại Thừa, một tiếng rống của Sư Tử, cho các vị Bồ Tát biết rằng các vị nên tu thành qủa Phật: Vì ai cũng có Phật tính tự nhiên. Đó là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà chúng ta tụng hằng ngày ngày nay và kế tiếp mãi mãi.

Vì kinh nghiệm trước, anh hướng dẫn du lịch đã mua bưởi đem lên núi trước. Trời bắt đầu nóng hơn lên, chúng tôi bóc bưởi ăn giải khát. Mọi người thích thú, nhưng chỉ thiếu ít muối ớt. Lúc xuống núi chúng tôi dừng lại để thăm hai hang động của Ngài Xá Lợi Phật và Ngài A Nan Đà. Hai bên đường đã đầy các người ăn xin. Để ý tôi thấy phần lớn là các bà già nua trong sarhi lê lết ngửa tay xin tiền. Các bạn mến, không sao đâu, các bạn mủi lòng thương xót cho họ một tờ 10 rupee túi tiền của bạn chẳng vơi đi là bao. Ngày hôm sau sớm hơn hôm trước. Thầy dẫn chúng tôi trở lại núi một lần nữa. Tôi vì mệt nên xin ở lại hotel. Lên xe bus tiếp tục xem các di tích khác vảo buổi trưa Chúng tôi đi tới thăm nơi Đức Phật tu khổ hạnh 6 năm. Tuy gọi là Rừng Khổ Hạnh, nhưng thực ra động ở trên cao, nơi đây có hai động nhỏ sát nhau. Bên trong có hai tượng, một tượng khổ hạnh và một tượng ngồi thiền. Đường lên nuí khá dốc, một em Ấn phụ đẩy sau lưng cho tôi leo lên. Lúc xuống núi cũng em này phụ một tay cho tôi đi xuống. Các em dịch vụ du khách một cách vui vẻ hồn nhiên. Thực ra người Ấn Độ có bản chất bất bạo động. Để ý xem khi nào bạn thấy họ ngoắc ngoắc cái đầu. Ai không biết cho họ là negative. Nhưng ngược lại, đó là cử chỉ đồng ý, đồng tình với người đối thoại hay giao dịch. Nơi đây cũng là nơi rất nhiều ăn xin, họ tranh dành nên phải cẩn thận. Các em mù loà, hai tay đánh trống, miệng tụng Nam Mô A Di Đà Phật hay là Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Thật tội nghiệp. Mong sao các em kiếp sau được sinh nơi cõi an lành hơn.

Đi hành hương mà không thăm NaLanDa, việng đại học cổ thì uổng lắm. Nghe nói Viện đại học nay đang được khai quật thêm lên. Thật là một công trình vĩ đại có quy củ. Chứng tỏ một thời vàng son của Giáo Pháp, nơi các vị mười phương tới tìm và học đạo bao thế kỷ sau khi Phật nhập Đại Niết Bàn.

Tới hotel nơi Bồ Đề đạo Tràng sau khi ăn trưa và nghỉ ngơi, Thầy cho chúng tôi đi tour, thăm thành phố, thăm một vài ngôi chùa xung quanh như nơi có tượng Phật ngồi thiền cao nhất của Nhật Bản; chung quanh là các tượng đứng của 10 đại đệ tử của Ngài. Một trong những chùa khá rộng và thanh lịch là chùa thờ Ngài Huyền Trang của China. Chúng tôi cũng đến thăm chùa chính của Tây Tạng, nơi Ngài DaLaiLaMa và Ngài Kamarpa 17th mỗi năm khoảng tháng 11 về hội để lễ Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng và giảng Pháp. Có khoảng gần 100 cậu bé, phần lớn là người Nepal đang được tu học tại đây. Các cậu trong áo cà sa đỏ, đứng xếp hàng ngoài vườn và hân hoan nhận cúng dường của Phật Tử trong đoàn. Với tờ giấy mới tinh, họ cḥay đi mua kẹo trong khu vực sinh hoạt của chuà. Thật ngây thơ và dễ thương. Tới giờ tụ tập trong chánh điện, các cậu ai nấy ngồi vào vị trí của mình trước kệ sách kinh. Thầy Tánh Tuệ nhẹ nhàng đến từng người phát quà cho các em. Đối với họ, Thầy như một người anh trong nhà.

Trong ba ngày kế tiếp đoàn chúng tôi sinh hoạt sáng và tối tại Bồ Đề ĐạoTràng. Tuy có thể đi bộ từ khách sạn tới đây, nhưng vì trời nóng bức, bụi bậm, đường xá khó đi, chúng tôi đi bằng tour bus, hoặc xe lam, xe xich lô cho tiện. Trước khi vào cổng, chúng tôi phải để giầy dép bên ngoài. Vì biết trước, phần lớn chúng tôi mang vớ cho sạch chân.

Bên trong BĐĐT tuy có vẻ tấp nập nhưng hoàn toàn thanh tịnh.Tháp toà nơi có tượng Phật hiện đang được chính phủ Ấn bổ túc thêm trên từng cao nhất. Nơi đây, mỗi sáng các đoàn hành hương dâng hoa tươi như hoa nhài, hoa vạn thọ, hoa sen, và dâng y lên Ngài Bổn Sư Thích Ca. Khi một phái đoàn dâng y, vị sư trụ trì tại đó sẽ đắp y ngay lên tượng Phật cho họ chứng kiến. Cứ sau khi được 10 lớp y, thì vị trụ trì sẽ mang xuống và người nào muốn thỉnh một bộ về nhà chỉ phải trả một lệ phí rất khiêm nhường, hoặc tuỳ hỉ cúng dường.

Tượng Phật Ngoc̣ Hòa Bình được tạc theo tiêu chuẩn của tượng tại BĐĐT. Nhưng khi bạn đứng tại đây, ngắm nhìn chân dung Ngài bạn sẽ cảm thấy không một tượng nào so sánh với tượng này được. Chỉ có một không hai mà thôi. Truyền rằng khi Ngài Ashoka xây tháp dâng Phật, dân làng thời bấy giờ muốn có một tượng của Ngài để thờ phượng bên trong. Họ dao truyền để tuyển người có tài giỏi nhất khắc tượng làm sao có thể biểu lộ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp của Đức Phật cho mọi người hướng về Phật tổ. Tự đâu có một điêu khắc gia nhận đứng ra nhận trách vụ này với điều kiện là không ai được xem công việc tạc tượng trong 3 tháng làm việc trong phòng kín. Sau hơn hai tháng nóng lòng, dân làng vì không kiên nhẫn tới tháp tông cửa vào, người tạc tượng đã biến mất. Tượng chưa hoàn toàn xong...Truyền rằng người điêu khác gia đó là Ngài Di Lặc, Matreya. Đứng dưới chân tượng, ngó lên, bạn sẽ cảm nhận ánh sáng từ bi của hai đôi mắt trong xanh cúi xuống trần khổ ải. Mũi thẳng cân đối với khuôn mặt không tròn, không dài. Miệng mỉm cười với vẻ bao dung.

Xung quanh tháp có khắc nhiều hình các tượng đủ hình thức, to, nhỏ,đứng ngồi v.v. Bên ngoài có một tượng của Ngài Avalokiteshvara, hay còn gọi là Quán Thế Âm, nơi nhiều người cho rất linh thiêng. Có tượng được nhiều người cúng lạy và dâng hoa hơn các chỗ khác. Chỉ là do truyền khẩu và lòng tin nên phân biện. Theo tôi nghĩ Phật nào cũng chỉ là một Phật mà thôi. Phật tự trong tâm, chỉ đợi đúng duyên đúng lúc là phát lộ, cứu mình và cưú chúng sinh.

Trong buổi sáng mát mẻ, các đoàn hành hương tự tìm chỗ tụ nhau lễ lạy và tụng kinh, ngồi thiền. Tiếng tụng kinh của nhiều thứ tiếng không còn có sự phân biệt trong cùng một âm thanh của từ bi, của tâm thành hướng về Đức Bổn Sư Thích Ca. Nhưng có một âm thanh vang lừng cao hơn cả là của ngàn con chim sẻ trên cội Bồ Đề líu lo ca tụng đức Thế Tôn. Chúng đến để chào mừng ca hát cho Ngài và tất cả hiện diện nơi BĐĐT.

Đoàn chúng tôi, được sự sắp xếp của Thầy Tánh Tuệ, mỗi người cầm 10 phong bì dựng rupees. Chúng tôi từng ngườì tự cúng dường các vị tăng ni đang tu tập chung quanh đạo tràng. Có vaì vị Phật Tử thấy còn thiếu, ngày hôm sau họ tự nguyện trở lại và cúng dường thêm. Trong thời gian này một đoàn Tăng của Tay Tang liên tục cầu nguyện cho hoa bình thế giới. Có thể họ tiếp tục thay nhau tụng liên tiếp trong một thời gian dài. Bên ngoài rìa các sư giả cũng khoác aó đỏ, vàng lảng vảng xin tiền.

Trong ngày, các bạn sẽ thấy có nhiều đoàn hành hương của người Hindu tới thăm. Họ đi ngay hàng, ghé vào nơi tượng Phật chính, tay họ chạm đỉnh đầu, rồi chạm xuống đất, một cử chỉ kính trọng trước một vị Thần. Sau đó họ ra hồ để nhúng chân gần đó. Hồ này là nơi Đức Phật khi thiền gặp một cơn bão, Naga một rắn thần lấy thân quấn lấy ngài để khỏi bị ướt. Theo như Thầy Tánh Tuệ nói, Đức Phật là vị thần thứ 9 của Ấn Giáo. Thật chớ trêu, họ chỉ cho Đức Phật là vị Thần, mà không để tâm theo Giáo Pháp của Ngài. Chỉ 2.7 phần trăm người Ấn theo Đạo Phật mà thôi.

Một trong những buổi sáng đó, dưới cội bồ đề, một hay hai vị Phật Tử nữ của một đoàn VN khác xuống tóc quy y tại đây. Trong giờ ăn trưa nơi đây vắng bớt nhưng cũng là lúc bạn có thể ngồi nghỉ chân bên dưới gốc Bồ Đề, hưởng khí mát của cây tỏa ra. Thinh thoang những con chim rào rạc cành làm rụng một chiếc lá, đó là điềm lành cho ai nhặt được.

Buổi tối tại BĐĐT chúng tôi tham dự hoa đăng, mỗi người cầm nến xếp hàng đi diễu xung quanh tháp. Lúc này đèn thắp sáng khắp nơi. Đến 9 giờ tối Đạo Tràng đóng cửa, chỉ còn lại những nhà tu sinh hoạt bên trong cho tới 4 giờ sáng hôm sau.

Ba ngày trong BĐĐT đã giúp đoàn chúng tôi dưỡng sức, sửa soạn chuyến xe lưả lần nữa về New Dheli .

Chỉ còn một ngày nữa là ra phi trường, Thầy Tánh Tuệ dẫn chúng tôi đi xem một ngôi đền mới, một kỳ công rất rộng lớn, tốn cả nhiều tỉ đô la. Có thể coi đây như là điện Versailles của Pháp. Đó là đền Bhagwan Swaminarayan AkshardhaM. Họ thờ một vị thánh đắc đạo thời 1781-1830 CE. Trong đền này, bạn được hướng dẫn đi thuyền như cảnh trong Disneyland để biết tiểu sử của vị này. Vé vào cửa khá đắt so với cuộc sống của dân Ấn. Tôi thầm hỏi không biết dân nghèo Ấn bao giờ mới được vào tới đây, thăm vị thần thứ 10 của họ?

Chiều tối ra phi trường, qua khỏi quan thuế, vô bên trong chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Tới phi trường S Korea mọi người được vài tiếng đồng hồ duỗi tay chân, nghỉ ngơi, thưởng thức món ăn Đại Hàn trước khi lên máy bay. Quả thật, thiên đường và địa ngục chỉ cách nhau một ngày bay.

Nước Ấn Độ, theo KM nghĩ, luôn luôn là nơi các Bồ Tát xuống trần để tu lần cuối giáo độ và làm gương cho các chúng sinh trước khi thành Phật.

Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha

Chúc các bạn ngày an lành, đêm an lành.
kb

Friday, June 14, 2013

Hai sự kiện đáng suy ngẫm


Nat'l Geographic photo: Urn contained the Sakya Muni Buddha's relics by King Ashoka. Excavated around 1898 by William Peppe.
Hai sự kiện về tôn giáo nên để thì giờ suy ngẫm tuy tránh đụng chạm
đức tin.

Gần đây có một video của National Geographic nói về sự tìm thấy
hũ tro đựng xá lợi   của Đức Phật Thích Ca và các đồ̀ vàng ngọc cúng dâng của vua Ashoka
khi nhà vua dời sang mộ mới xây gần Lumbini, và các cột đá có ghi lịch sử thời của ông ta và về Phật Thích Ca.
Phật Thích Ca là một người như mọi người, Ngài là một nhân vật
lịch sử có một không hai từ hơn 2500 năm rồi và tiếp tục mãi mãi...

Người bình luận trong video "Bones of the Buddha"
thốt lên "Hãy tượng tượng như tìm thấy xương của Jesus Christ"
Thật thế, chúa Jesus tuy Ngài sinh ra sau Đức Phật 500 năm nhưng chưa ai tìm được ngôi mộ của Ngài, cùng cây Thập tự giá mà Ngài bị quân La Mã đóng đinh. Vì thế có một số sử gia cho rằng Ngài không hề chết trên cây Thâp tự giá...Rome thời đó hỗn loạn và các giáo chủ Judaism/Jewish cũng tham nhũng không kém...Vua Constantine lợi dụng thời cơ lập nên Thiên chúa giáo, ra lệnh viết Thánh kinh theo ý của vua.  Thời đó đã có rất nhiều người tin vào những lời giảng của Đức Jesus nên Constantine dựa vào đó củng cố quyền năng chính trị và xã hội.

Các sử gia cho rằng Jesus theo con đường tơ lụa sang hoc̣ đạo bên Ấn Độ từ năm 14 tuổi tới 29. Ngài trở lại La Mã, giảng đaọ theo như của Phật Pháp. Chúa Jesus sau khi bị phản bội bị đóng đinh nhưng được gia đình đồ đệ cứu sống lại và Ngài từ giã họ và một mình trở lại Ấn Độ như Ngài đã từng tới đó hồi còn trẻ...Nhưng sau đó Ngai có trở lại La Mã nhưng không ai nhận ra Ngài.
Vì họ tin vào huyền thoại đang được vẽ mới về ngài : Chúa Jesus bị chết trên cây Thập tự vì nhân loại...rồi Ngài sống dạy ba ngày sau và biến mất , hay gọi là thăng thiên... Ngài thăng thiên lên với chúa Trời thì sao lại còn người trần mắt thịt đang bước chân trên mặt trái đất?  Không ai tin được.
Ngài lại ra đi, sang Kashmir cùng một số những người bộ lạc Israel tin tưởng nơi Ngài và tiếp tục truyền đạo cho đến khi chết tại  Kashmir...có ngôi mộ dành riêng cho Ngài nơi đây.

Suy nghĩ rằng các người Christians tin
vào câu Jesus nói "Ta là con của chúa trời" nên họ xem Jesus như God. Nhưng theo thiển ý, Jesus sau khi học Đạo bên Ấn Độ và Tây Tạng có lẽ Ngài không bao giờ phát biểu như vậy mà có lẽ Ngài co ́ý nói "Ai cũng là con của Chúa" theo như tình huống xã hội thời bấy giờ. Nhưng sao người thường có thể tin chính mình cũng là con của Chuá trời được. Cũng như bên Phật giáo có ai tin chính mình cũng có Phật tính và cũng sẽ trở thành Phật được?
Những lời giảng cua Đức Jesus có ảnh hưởng đông phương và gần gũi Phật Pháp..tuy ngôn ngữ thời bấy giờ khác hẳn, nhưng ý nghĩa không khác xa...có khác là do sự uyển chuyển của ngôn ngữ áp dụng vào đời sống xã hội thời cổ mà thôi.

Thí dụ:
Câu nói bất hủ cuả Jesus: "Cái gì của Ceasar hãy trả lại Caesar, của Gods trả lại Gods" Chữ Gods ở đây dịch từ chữ Elohim , từ ngữ Hebrew của người Do Thái, tự nó là số nhiều, plural form.  Thời cổ xưa con người tin vào nhiều thần linh, god mặt trời, god mặt trăng, god giông bão, god núi lửa... god sáng tạo, god phá huỷ vân vân và vân vân...Sau này chữ Elohim được dùng chỉ một GOD : God Sáng Tạo... vì tr̀inh độ hiểu biết của dân tình đã lên cao thêm vài bực...
Jesus đã giác ngộ hiểu về 3 nhân duyên dẫn tới khổ đau là tham sân si. Chính vì lòng tham nên các pháp sư Jewish giữ dấu các đồ̀ng vàng bạc khắc hình của Caesar mà  khăng khăng không đóng thuế cho Ceasar, và vì ngu muội nên tin vào các gods che chở cho họ - clinging in the god concept-
Vì sự giác ngộ này Ngài đã quá khích động lật đổ bàn đổi tiền của người Do Thái trong đền thờ trang nghiêm, va tuyên bố:
"Cái gì của Ceasar hãy trả lại Caesar, của Gods trả lại Gods"
Đó là trạng thái chung của người mới giác ngộ, rất hăng hái và nồng nhiệt truyền sang cho mọi người xung quanh...trong trường hợp này Jesus hãy còn lẩn quẩn trong bực thứ tư của sư giác ngộ hay còn gọi là A La Han. (Jesus có thể làm vài phép lạ như lời truyền. )
Còn Đức Phật, sự giác ngộ của Ngài hoàn toàn đạt tới bậc cuối cùng của vị quả Phật: Ngài giữ im lặng trong thiền định Ngài muốn nhập Niết Bàn ngay từ lúc đầu..Nhưng vì Ngài còn thương chúng sanh nên hy sinh thêm gần 50 năm mòn mõi giảng dạy quần chúng...ai không hiểu được hôm nay thì còn có ngày sau, kiếp sau từ từ từng bước một....
Đó là hai sự kiện đáng suy ngẫm.
Did Jesus Die On Cross (BBC Four Documentary)
Jesus was a Buddhist Monk - BBC Documentary
Jesus in India by Edward Martin [Must Watch]
Nat'l Geographic video on the Bones of the Buddha
------------------------------------
Sách về Jesus in India/Taytang:
The secret of Shambhala
by James Redfield

================================

Believe in your inner self where all the goodness of nature to be discovered.
Love Buddha. Love Jesus.
Kim Morris
June 2013 Las Vegas NV



Legacy of the Buddha - Di sản của Đức Phật Thế Tôn




Legacy of the Buddha
The Universal Power of Buddhism
Di sản của Đức Phật Thế Tôn
Toàn lực của Phật giáo
By Sanghamitra Sharma – 2001


Phật Giáo Ấn Độ
Mahayana Buddhism - Phật giáo Đại thưà

Page 101 
  
Các lý thuyết vào thời kỳ hưng thịnh nhất của Phật giáo và vào thời  vua Ashoka tiêu biểu Phật giáo nguyên thuỷ.  Phản ảnh này được cho là thời kỳ của phái nguyên thuỷ hay là Hinayana – Tiểu thừa.
Nhưng sau thời kỳ này có nhiều khuynh hướng được phát triển trong khoảng thời gian giữa vua Ashoka và hoàng đế Kanishka và trở nên cách biệt, từ đó nảy mầm Mahayana Buddhism – Phật giáo Đại thưà.
Trong khoảng 500 năm sau khi Phật nhập Niết bàn, vào thế kỷ thứ nhất và thứ hai của kỷ nguyên AD, một cuộc cách mạng trong tư tưởng Phật giáo xảy ra.  Những tư tưởng mới này thực ra đã có nguồn từ lâu trong các hệ phái miền Nam và miền Đông bắc nước Ấn.  Những Phật tử cho đó là phái Đại Thừa, Mahayana, “cỗ xe lớn”, “Con thuyền lớn” và họ cho Hinayana là "cỗ xe nhỏ", “con thuyền nhỏ”.
Tư tưởng Đại thừa , Mahayana được mở rộng do đáp ứng với mong muốn của các Phật tử Ấn Độ.  Phật Giáo vào thời đó chỉ dành cho các vị tu sĩ.  Thường dân Phật tử không được tham dự các hoạt động nghi lễ tôn giáo.  Và những vị tu sĩ “A la hán»càng được trọng vọng như là các qúi tộc trên con đường cứu rỗi hoàn toàn có tính cách cá nhân.  Tư tưởng « not-self »  hay là «vô ngã » không có nghĩa gì đối với người bình dân nếu vị hành giả chỉ theo đó mà làm lợi cho bản thân họ.  500 năm nỗ lực dòng dã làm Phật giáo mệt mỏi và xa lạ khỏi quần chúng trong khi lại khó tìm thấy các vị A la hán thật sự.
Tư tưởng Mahayana – Đại Thưà mới mẻ này có vẻ hấp dẫn cho cả tu sĩ lẫn Phật tử.  Tầm quan trọng của giáo dân được biểu hiện qua Vimalakirti, một nhân vật trong huyền thoại Sanskrit người đã từng có những cái nhìn sâu sắc và lòng từ bi bác ái tương ứng với những hoạt động của ông trong cuộc sống dân sự.
Trọng điểm của chủ thuyết Mahayana là chuyển hướng từ sự chú trọng vào quả Arhat - A la Hán - Giác Ngộ cá nhân – enlightened person-  qua Boddhisattva – Bồ Tát - Chúng sinh được Giác Ngộ – enlightened being.
Trước kia Bồ tát có nghĩa là một vị Phật sẽ thành.  Theo Đại thừa có nghĩa chúng sinh là người đã họăc sẽ đạt giác ngộ.  Nhưng sự đạt được giác ngộ không phải chỉ cho chính bản thân họ; mà phải là sự theo đuổi mục tiêu cứu rỗi các chúng sinh khác.  Những lời nguyện của Bồ tát còn đi xa hơn nữa là sẽ không vào cõi Niết Bàn trước khi các chúng sinh đã được vào nơi đó.  Cũng như Đức Phật, vị Bồ Tát phải thực hành các độ phẩm toàn chân thiện mỹ (paramita), và điểm quan trọng là sự bố thí(dana), và trí huệ ( wisdom.)  Lòng vị tha cao cả trong vị tri như thế đã có kết quả làm phát huy lòng tín ngưỡng trở lại với Đạo Phật và đặt lòng từ bi bác ái một điểm chính yếu trong sự thực hành Phật pháp.
Hình ảnh một chiếc thuyền to lớn, con thuyền Bát Nhã, của phái Đại Thừa tạo ra một biểu tượng chung cho các tôn giáo của Ấn Độ.  Tư tưởng của Ấn Độ giáo, Hindu, Đạo Jain, và Đạo Phật cho khổ đau và luân hồi như là một biển rộng hay con sông lụt ngăn chặn nhân gian tới bờ giác ngộ, nirvana.  Giòng sông Hằng mỗi khi bị lụt tràn nước cho người Phật tử Ấn một biểu tượng của cõi luân hồi vô tận.  Các vị đại sư phái Đại thưà cho rằng pháp lý của họ cũng như một 'con thuyền lớn' đưa nhân loại qua ‘bờ bên kia vào cõi Niết Bàn.’  Phái theo tiểu thừa bị cho là chỉ cung cấp các' thuyền nhỏ' cho một thiểu số có tâm linh cao qua bờ mà thôi.
Trong trường phái Đại Thừa, các Bồ Tát có thể là những chúng sinh toàn năng hay các nhân vật thần thoại như ngài Avalokiteshvara, hay Bồ Tát Di Lặc- một vị Phật tương lai đang lo cho nhân loại chúng sinh.  Đức Phật thì được thần thánh hoá.  Một vị Bồ tát phải đạt (6) lục độ phẩm – quảng đại, kiên trì, thiền định, đạo đức, năng lực và trí huệ. Qủang đại là một yếu tố quan trọng nhất.  Giáo thuyết này được bành trướng mạnh trong khoảng 200 AD do Ngài Long Thọ- Nagarjuna, một nhà hiền triết Phật giáo. Đây là kỷ nguyên của Madhyamika , Middle Way hay là Trung Đạo.
Vì không thể chấp nhận việc Đức Phật nhập đaị Niết bàn là một sự kiện đơn giản nên một số lớn đệ tử và tín đồ ngưỡng mộ Đức Phật đã phát động lên lý thuyết về Tri-Kaya- hay Tam Thân. Lý thuyết này khẳng định rằng tương đương với niết bàn, Pháp thân -  Dharma-kaya (body of essence) đã có ẩn giấu tất cả các hiện tượng đó.  Sau Pháp Thân có Báo Thân - Samhoga-kaya (body of bliss).  Và rồi từ Báo Thân xuất hiện Hoá Thân - Nirmana-kaya (body of magical transformation - hay thể chất của thần thông biến hoá biểu hiện trong một người vừa bình thường vừa siêu phàm như Đức Phật có ghi nhận trong lịch sử của vùng Đông Bắc Ấn Độ.)
Sự tin tưởng phức tạp này là một hệ thống cực đoan xa rời khỏi hệ thống nhân bản và bình dị thể hiện trong các bài giảng bằng tiếng Phạn. Nó cho thấy rõ ràng ảnh hưởng của phái Hindu Bhakthi phổ thông và của Ba Tư (Persian) cùng với những lý thuyết thần học Hy Lạp – La Mã (Greco-Roman) đã từ từ thẩm thấu vào từ hướng tây bắc của Ấn Độ.
Đi song song với lý thuyết mới này là một đường lối dân chủ địa phương trong đó tín đồ đã thấu hiểu một cách rành mạch là đối tượng sùng tín của họ và chính cá nhân họ tuyệt đối là một. Mọi người ai cũng có phôi thai trong mình cái Phật tính.
Chính bên trong trường phái Đại Thừa đã có những giòng tư tưỏng khác biệt.  Một chiều hướng có ảnh hường rõ rệt nhất là phái Madhyamika (những người có tư tưởng Trung Đạo) được biết là do đại hiền triết của Nalanda, ngài Long Thọ (Nagarjuna of Nalanda) thời đó khởi xướng.  Ngài Long Thọ đã viết ra một số lý thuyết, trong đó quan điểm về Trung Đạo (Madhyamika-karika) được coi là một tuyệt tác và trình bầy triết lý của trường phái của Ngài theo một phương cách có hệ thống mạch lạc. Quan điểm này cho rằng Vô Ngã – hay sunyata là chân lý tuyệt đối không thể nghĩ bàn. Quan điểm này còn cho rằng không có gì khác biệt giữa niết bàn, vô ngã, và luân hồi sinh tử. Một vài giáo phái Trung Hoa đã truyền bá chủ trương vô ngã này nên hệ thống Trung Đạo đã được duy trì lâu dài.  Môn phái Sanron của Nhật cũng theo đuổi đường lối này.

Trường phái Yogacara hay Du Già, chuyên tập luyện Yoga do ngài Maitreya
sáng lập trong thế kỷ thứ 3 AD nhưng lại được những người khác nhóm, hai anh em khác cha (mẹ) Asanga và Vasubandhu, phát huy trong thế kỷ thứ 4 AD tại thành phố Gandhara. Trường phái này đạt tới tột đỉnh trong thời đó.  Trường học Yoga, có tên như vậy, vì chú trọng vào việc thực hành Yoga như một phương pháp hữu hiệu nhất để đạt tới trạng thái giác ngộ tuyệt đối (bodhi). Trường phái này cho rằng chỉ có tâm thức mới là thực tại tối cao.  Nói tóm lại, họ dạy về lý tưởng của tư tưởng cá nhân, hay ý nghĩ (thought) tự nó là sự thật.  (Subjective idealism – Duy Thức học).

Nhiều ý nghĩ sáng tạo lan tràn rộng lớn đánh dấu sự phát triển cao độ của trường phái Đại Thừa của Phật giáo. Nalanda (Na Lan Đà) tại thành phố Bihar phía đông của Ấn Độ, là một trung tâm phân phối học bổng Mahayana nổi tiếng và được ca tụng nhất của trường phái này tại Ấn Độ.
Vào thế kỷ thứ 7 AD một hình thức khác của Phật Giáo xuất hiện, được gọi là Vajrayana ( Diamond or lightning vehicle) hay Kim Cang Thừa.  Trường phái này  còn được biết tới hay được nhận diện một cách rộng rãi hơn bằng tên Tantrism hay Mật tông vì những cuốn kinh sách linh thiêng bằng mật ngữ gọi là Tantras (Thần chú).  Phương thức của phái này bao gồm việc thực tập Yoga chung với lý thuyết về lễ nghi long trọng phức tạp, hòa hợp với những bí thuật và kèm theo sự thờ phượng một số đông thần linh, cùng các vị Phật và các vị Bồ Tát. Học thuyết bí truyền này được Asanga khích lệ và phát huy, và từ lý thuyết đó phát sinh ra những liên hệ táo bạo, đặc biệt là các liên hệ đến những biểu tượng về tính dục và rồi lan rộng sang các giáo phái khác cho tới khi Phật giáo biến mất tại đất Ấn Độ.
Nguồn gốc của Tantrism hay Mật tông đã có lâu dài ở Ấn Độ. Một hình ảnh được tôn sùng nhất của Phật giáo mật tông là một nhà sư sống trong thế kỷ thứ 8 AD tên là Padmasambhava (ngài Liên Hoa Sinh). Vào thời điểm đó Phật giáo Mật tông phát triển mạnh ở vùng đông nước Ấn phần lớn là nhờ sự bảo vệ và hỗ trợ vững chắc của triều đại vua Pala.  Từ những thời gian khởi đầu các đại sư Phật giáo đã lên án sự đam mê dâm dục là một yếu tố quan trọng trói buộc con người vào trong vòng sinh tử luân hồi.  Trong suốt 12 thế kỷ hầu hết các tu viện đã ra lệnh và các tu sĩ Phật giáo đã phát triển sự ghét bỏ phái nữ đến mức độ giống như của các linh mục bên Thiên chúa giáo.
Trái ngược lại, rút tỉa ra từ việc thực hành các nghi lễ, yoga và bí thuật, các tư tưởng gia của mật tông nhìn thấy các biểu tượng của tính dục và tính nhị nguyên của sắc dục trong tất cả mọi vật. Tiến xa hơn nữa, họ mang các nam và nữ thần  vào đền thờ làm những đối tượng để thờ phụng như trong đền thờ Ấn Độ giáo hay theo phong tục tập quán của người dân bình dị của Ấn Độ. 
Phật giáo mật tông được thực hành ở Nam Dương, sau đó tiến vào Tây Tạng, rồi tới Mông Cổ.  Hình thức môn Phật học này được nghiên cứu tại những trường đại học thuộc tu viện Nalanda và Vikramasila cho đến cuối thế kỷ thứ 12 AD thì bị quân đội xâm lăng của tướng Hồi giáo Bhaktiyar Khilji (please Google) tàn phá sau khi đã dọn sạch Ấn Độ giáo và Phật Giáo.

Tuy nhiên Mật tông đã tạo ảnh hưởng sâu đậm trong sự phát huy của Phật giáo ở Tây Tạng.
  
MAHAYANA & HINAYANA BUDDHISM
Buddhism in Tibet
Page 210


Tây tạng là nơi cuối cùng tại châu Á cải hoá sang Phật Giáo.  Tuy ở một địa thế cách biệt nhưng Tây Tạng là một cường lực ở Á Châu; đã lấn sang Trung Hoa trong khoảng thế kỷ thứ 7 và thế kỷ thứ 9 AD, chiếm thủ đô Chang’an trong một thời gian ngắn.   Sự liên lạc chung đụng ranh giới với Trung Hoa, Kashmir, Ấn Độ, và Nepal trong những thế kỉ này đã mang Phật Giáo và Ấn Độ giáo vào Tây Tạng và giúp cho sự thành hình rực rỡ của nền văn hoá Phật giáo Tây Tạng.

Khởi thủy của Phật Giáo Tây Tạng bắt đầu bằng huyền thoại rằng có vài nhà truyền giáo tới gặp vua Tho-tho-ri, và dâng lên ngài những cuốn Kinh Phật nhưng họ phaỉ thất vọng trở về vì hoàng gia không thể đọc và hiểu những vần chữ lạ lùng.

Khi vị vua trẻ tuổi Sron-btsan lên ngôi, ngài chỉnh đốn quân đội cao tới mực mà  ở phía nam Vua Ansuvarman của Nepal và sau này Hoàng Đế Trung Hoa T’ai-tsung ở phía bắc có ý giao kết đồng minh với Tây Tạng bằng cách gả con gái của họ cho vua.  Hai hoàng hậu Bhrukuti của Nepal và Wen-Ch’eng của China yêu cầu vua nên đem Phật giáo vào Tây Tạng.

Khi Phật giáo được đem vào Tây Tạng, dân địa phương thực hành dưới hai hình thức và gọi là Đạo Bon.  Một hình thức thiên về thờ phụng vua chuá.  Vì các vị vua được coi như là người cai trị linh thiêng nên những nghi thức tang lễ rất là quan trọng, và trách nhiệm ưu tiên của các vị Đạo sĩ Bon là duy trì và thực thi các nghi lễ để củng cố sự tồn tại liên tiếp của hoàng gia và các thần linh.

Cũng như các vị vua lãnh đạo trước kia và sau này, những quốc gia lân cận trong vùng, Vua Sron-btsan công nhận tiềm năng hợp nhất của Đạo Phật , và về sau vua được phong là một hoá thân của Avalokiteshwara.  Vua đã từng gửi một sứ giả của hoàng gia , Thon-mi Sambho-ta, cùng một đoàn 16 người sang Ấn độ học cổ ngữ, âm ngữ và văn phạm, và từ đó vua đặt sự tin cẩn vào phái đoàn, sáng lập ra vần chữ cái, ngôn ngữ, và văn phạm căn bản cho tiếng Tây Tạng.  Thon-mi đã làm việc rất đắc lưc, ngoài việc soạn thảo các tập luận biệt lập về chữ viết và văn phạm Tây Tạng, ông còn soạn dịch một vài công trình Phật Học từ kiếng Sanskrit.

Trong thời vua Sron-btsan các truyền thống của tu viện hay tịnh xá đều được đặt ra bởi các vị sư từ Ấn Độ và từ Trung Á tới đây.  Vua  ban hành luật cho hoà hợp với nguyên tắc Thập Thiện trong đạo Phật.  Ngài xây những đền nổi tiếng như Ramoche và Jhokhang ở Lhasa, và công trình kiến trúc vĩ đại lâu đài Potala - còn tồn tại tới ngày nay một  phần nhỏ của kiến trúc do vua khởi dựng.

Phật giáo phát triển và tạo nền tảng trong thời cai trị của vua Khri-song 740-798 AD.  Quyền hành cuả tổ chức các cộng đồng Phật tử  hay Tăng Đoàn được thiết lập và với sự xuất hiện của Mật thừa  đại tu viện Padmasambhava ở Samye được thánh hoá.  Nơi đây từ khoảng 779 AD trở lên , các vị sư Tây Tạng được thụ phong.  Không may thế kỷ sau đó do sự bất ổn định của Tây Tạng, Đạo Bon lại nổi dạy làm Đạo Phật bị lu mờ.

 Sau này sự truyền bá Giáo Pháp lại được phục hồi và Đạo Phật được "giới thiệu lần thứ hai" và được thiết lập như một quốc giáo dưới vương quyền của vua Khri-sron-ide-btsan 755-797AD.  Dưới triều vua Ngài thiết lập tu viện to lớn  đầu tiên tại Bsam-yas theo kiểu của Udyantapuri ở Bihar, Ấn Đô.  Dị giáo bị thanh trừng khỏi các tu viện và giáo luật của Theravada – Nguyên thuỷ – dựa theo Luật Tạng được áp dụng trong các tu viện mới lập.  (Luật tạng là một trong Tam tạng được soạn thảo bằng tiếng Phạn bởi các nhà sư giáo phái Nguyên thủy).   Vị có công cải cách Phật giáo nổi tiếng nhất là một nhà sư người Ấn Độ tên là Atisa (982-1054 AD) tới Tây Tạng năm 1042.  Người ta cho rằng chính nhờ ảnh hưởng của vị sư này mà có sự truyền bá lan rộng của giáo phái Avalokiteshwara, một vị thánh bổn mạng của Tây Tạng.
Sư Atisa giữ nguyên Mật tông thừa để truyền cho các đệ tử thân cận.  Ngài thuyết giảng Phật giáo Đại thừa và Ngài được đặc biệt biết đến do việc khôi phục lại phương pháp khắc nghiệt trong sự tu hành.  Ngài lưu lại ở Tây Tạng 13 năm và mất tại đây vào năm 1054 AD.
Sự cải tổ của Atisa được tiếp tục và  củng cố bởi các tăng sĩ ở thế kỉ thứ 11 do thu nhập các văn kiện và giáo lý từ Ấn Độ vào.  Các phái Tiểu thừa và Đại thừa đều du hành tới vùng cao nguyên Tây Tạng nhưng chỉ phái Đại thừa và hệ thống Mật Tông Ấn Độ là còn tồn tại và Giáo Pháp của ‘Cỗ xe Kim cang’ hay trường phái Vajrayana được khai triển đầy đủ .  Sự thống nhất của tín đồ hai phái này giúp họ tăng trưởng và tồn tại trên căn bản của sự tiếp xúc thường xuyên với các Phật tử Ấn Độ.
Vào khoảng thế kỉ 16 quyền lực chính trị cuả ‘Trường phái  Đạo Đức’ (Gelugpa) do Ngài Tsonkhapa tạo dựng được chính thức hoá.  Dựa trên những luận thuyết của các triết gia Ấn Độ và của Ngài Atisa, Ngài truyền bá Đại Thừa Pháp và Mật Tông Pháp.  Ngài hoà nhập hai phương pháp dựa theo bảng xếp hạng của Ngài Atisa;  Hinayana (Tiểu thừa) là con đường của những người có khả năng vừa phải.  Mahayana ( Đại Thừa)  cho những người có khả năng cao hơn, và Vajrayana, Kim Cang thừa hay MậtTông thừa  là ‘cách tu nhanh chóng’ dành cho những người có trí tuệ và tâm linh cao.  Trường phái này còn gọi là New Kadampa hay Mũ Vàng. Sự thành công của trường phái này là một hiện tượng ở thế kỷ 17 và họ đã thiết lập sự kiểm soát toàn bộ lãnh thổ dưới sự lãnh đạo của hoá thân thứ 5 của Ngài Tsongkhapa; còn gọi la ĐaLai LaMa thứ 5 theo  tiêu đề Mông Cổ ban cho dòng phái này từ thế kỷ thứ 16.  Với một vài cải cách tùy nơi chính quyền tôn giáo này tiếp tục cho đến năm 1959 Ngài Da Lai La Ma 14 phải rời Tây Tạng dưới sự đe doạ của Cộng Sản Trung Quốc.
Có sự thống nhất trong chánh tống phái Tây Tạng tuy có những chi tiết nhỏ khác biệt trong các nghi lễ và sự thực hành giữa các tu viện .  Sự kiện này được hỗ trợ bằng toàn bộ Kinh Điển Phật Pháp được dịch sang chữ Tây Tạng.  Có nhiều bản Kinh Điển Sanskrit chỉ còn tồn tại qua các bản dịch sang chữ Tây Tạng.  Những biểu tượng rộng lớn của nghệ thuật nguyên thủy được tạo tác khắp nơi xung quanh các tu viện; tranh sơn, điêu khắc bằng kim khí cũng như các công trình kiến trúc.  Rất nhiều các tu viện và những đồ trang trí trong đó bị phá huỷ hoặc xúc phạm trong hoặc sau thời kì cách mạng văn hoá khoảng thập niên 1950 của TQ.  Tuy một số người man rợ đã phục hồi những mất mát nhưng Tây Tạng vẫn còn là một nước bị xâm lấn, với một chính phủ lưu vong.  Đức ĐaLaiLama 14 hiện cư trú ở Dharamsala, Ấn Độ ;  các nhà lãnh đạo khác và nhiều thường dân Tây Tạng đang lưu vong tại Ấn Độ hoặc các nước Tây Phương .
The Buddhist Cosmos in Tibet
Page 217
Vũ trụ quan của Phật giáo Tây Tạng là một tổng hợp của huyền thoại của Ấn Độ giáo và Phật Giáo, cả Tiểu Thừa và Đại Thừa đều đề cập tới. Giáo phái Tây Tạng giải thích Jambudvipa hay Diêm Phù Đề, lục địa của loài người, là một trong 4 địa quay xung quanh Núi Tu Di – Mount Meru, một trục của vũ trụ.
Trong truyền thống Tiểu thừa thế giới (loka), gồm có 3 cõi.  Thứ nhất là Dục giới hay Kama-loka (the World of the senses) có 6 hạng từ cao xuống thấp:   trời, người, atula, súc sinh, ngã quỉ, địa ngục.  Trong tầng hạ hơn nữa có Indra và các vị thần của Ấn Độ giáo.  Thế giới của atula hay các quỉ thần, titan, thì có rất nhiều loại nửa người nửa thánh luôn luôn có những sự xung đột với các vị trời về cái “cây ước muốn’ (great wishing tree) cao  gần nửa đường lên núi Tu Di.  Có 6 đường luân hồi tương ứng theo 6 tạng của Dục giới nhưng không có gì hơn bằng con đường đạt tới Niết Bàn.
Thế giới thứ hai (second loka), trong Tiểu thừa là sắc giới, Rupa-loka, của các vị trời cao hơn, và thế giới thứ ba là vô sắc giới (immaterial world) nơi các vị trời ngự vô biên giới và vô thức giới.  Những ai từng thực hành thiền định và đạt kinh nghiệm tới cõi vô sắc, không gian vô tận, và vô thức giới có thể được sinh vào cõi này.
Nhiều vị sư Tây Tạng, lamas, nói với đệ tử là không có địa ngục mà đó chỉ là ảo tưởng nhưng dầu sao cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa  đều có những tranh hình ảnh của các cõi địa ngục.  Những địa ngục nà nằm sâu trong lòng đất được cai quản bởi Diêm Vương God Yama, người phán xét các nghiệp của kiếp trước.  Trách nhiệm cá nhân là trọng tâm của sự phán xét và đền tội.  Trong truyền thống Tiểu thừa có 8 cõi địa ngục;  sách Tây Tạng liệt kê 16, có cả nóng và lạnh.  Địa ngục xấu xa nhất là – Avici – địa ngục A Tì nơi dành cho những người bị tra tấn vô tận vì tội phỉ báng Đức Phật hay Tăng Đoàn.
Trường phái Phật giáo Đại Thừa của Ấn Độ đã ảnh hưởng tới Phật Giáo Tây Tạng trong sự thâu nhập thuyết lý  “Cỗ Xe Thần lực”, “Vehicle of Thunderbolt” (please Google this), hay Vjara  mà từ đó Tây Tạng đặt tên cho tông phái cuả họ.  Trong Ấn Độ giáo, thần lực này từ kim cương và cũng chính là kim cương cứng rắn có thần lực mà Indra, một vị chúa trời của Vệ Đà (Vedic) dùng giao chiến với Atula hay Titans.  Trong Tây Tạng, biểu tượng chiến thắng vững chắc không thể bị huỷ diệt này trở nên tiêu biểu của chân lý tuyệt đối và là một danh hiệu của Phật Giáo Tây Tạng.

Tantric Buddhism
Page 218
Phật Giáo Mật Tông được khai triển ở Ấn Độ nhưng có nhiều tín đồ trong thế giới Phật Giáo noi theo.  Tầm quan trọng là Mật tông là trọng tâm của một Phật Pháp phức tạp, linh động được tiến triển trongTây Tạng. Điều cần thiết là có một sự hiểu biết căn bản về những nghi lễ và niềm tin để hiểu về Phật giáo Tây Tạng.
Tantra, một hình thức thần bí của tư tưởng Phật giáo và Ấn Độ giáo, được xuất hiện tại Ấn Độ vào khoảng 700 AD, một ngàn năm sau khi Đức Phật lià trần.  Trong Đại Thừa các vị thần và ý niệm về thượng giới là từ Ấn Độ giáo;  Tantra cung cấp thêm những biểu tượng huyền bí cho sự sùng tín của Đại Thừa.
Tâm điểm của Mật tông là những hình ảnh của nam thần và nữ thần trong trạng thái liên hợp tình dục lõa thể.  Những vị nam thần của Ấn Độ giáo luôn luôn có những nữ thần hộ vệ bên cạnh.  Đặc biệt là chúa tể Lord Shiva và nữ thần Parvati.  Trong các thể dạng khác nàng là một nữ thần chiến binh Durga, hoặc là một ‘nữ thần đen’ Kali.  Sự khai triển của Mật tông dường như đi kèm với tính cách thần lực quan trọng của các nữ thần mà nhờ đó vũ trụ được tạo nên dựng.  Biểu tượng của những vị nam và nữ thần từng cặp một có hai thực thể:  một là thể hiện của sức sống còn và là năng lực shakti đang hoạt động trên thế giới. 
Cũng giống như nam và nữ thần trong Ấn giáo, Phật và Bồ Tát trong trường phái Đại Thừa chấp nhận các vị nữ thần.  Thường ra họ là những vị dễ gần gũi hơn là những nam thần, và từ đó Phật Bà shakti được sáng tạo dưới hình thức gọi là Tara. Vị shakti bên cạnh Đức Phật có khi biểu hiện là Prajnaparamita – Chân Thiện Mỹ- Perfect Wisdom.  Một trong những ý nghĩa của biểu tượng shakti qua kiến thức đầy đủ của Mật tông, và qua sự hiểu biết cao cả là phải có sự đối chiếu và hoà hợp của hai thái cực trên thế giới – nam/nữ, tốt/xấu, sáng/tối, luân hồi/niết bàn.
Trong thời kỳ nguyên thủy các nghi lễ Mật tông được thi hành một cách bí mật về ban đêm vì chỉ có những người đã từng thụ pháp những biểu tượng của họ mới được tham gia.  Tuy không có sự kỳ thị giai cấp nhưng một buổi tối của puja, một hình thức nghi lễ của Ấn Độ giáo, được tiếp theo bằng những hoạt động dính dấp tới tình dục cấm kỵ của các tín đồ chính thống Ấn; thành thử hội viên hay người gia nhập cũng bị hạn chế.
Tư tưởng Mật tông xâm nhập vào Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Tây Tạng không phải do từ chính thống giáo.  Cũng như Ấn Độ giáo, Thần chú trong Đạo Phật là do bởi các nhà sư bên ngòai lề của các tăng đoàn sáng tạo.  Họ là những người tìm kiếm cách biến hoá chính cho họ thành Phật.  Tụng chú và hô hán các từ ma thuật cộng bùa chú  để van xin thần lực thật ra cổ xưa như văn minh con người.  Mật tông đã vay mượn những thần chú và sáng tạo nên các câu chú riêng của họ.  Thần chú cao nhất của Mật tông là “Om mani padme hum”.  Sáu chữ của câu thần chú này – mani (jewel) va padme (in the lotus) trong Sanskrit tương dương với lục độ phẩm của Bồ tát hạnh:  quảng đại, kiên trì, thiền định, đạo đức, năng lực và trí huệ.
Sutras, Kinh tạng, nói về giáo lý, Vinaya hay Luật tạng nói về các điều luật cho tăng đoàn, và Abhidhama hay Luận tạng nói về thuyết luận của sự hiểu biết Phật Pháp.  Hầu hết kinh tạng Mật tông cho biết những chi tiết của các câu thần chú, âm thanh thần bí, dấu ấn, những sơ đồ huyền diệu (magical diagram) cuả yantras and mandalas, và những nghi lễ để làm cho các tín đồ sẽ trở thành siddhas, người thuộc về quyền lực.  Những vị sư chính tông chấp nhận rằng họ phải trải qua nhiều kiếp khổ đau để được đạt tới Niết Bàn.  Tín đồ theo Mật tông, mặt khác, họ tin vào những nghi lễ và sự thụ pháp trong các nghi lễ của ma thuật bán mật thì họ có thể chuyển hoá sang quả Phật.


Vajrayana, the Buddhism of Tibet
Kim Cang Thừa, Phật giáo Tây Tạng

Page 221

Phật giáo Tây Tạng, hay Kim Cang Thừa (Vajrayana), được xem như là một hoc pháp đầy đủ toàn bộ vì có hòa hợp chủ trương của cả hai học thuyết Tiểu thừa và Đại thừa cùng với sự thực thi những tin tưởng và thực hành nghi thức của Mật tông Ấn Độ.

Tu sĩ của phái Kim Cang thừa có một tiến trình tu học đặc biệt kéo dài, bao gồm toàn bộ triết lý, thần học, và nhận thức luận của Phật giáo.  Những người đạt tới trình độ tiến sĩ Vjara hay trình độ học thức của cấp bực “geshe” hoặc là rabjam-pa (học bác thâm thúy hay thạc sĩ Phật học) đã phải trải qua gần như từ 20 tới 30 năm ngoại trừ 12 năm học căn bản cần thiết để đủ được thọ giới.

Kim Cang thừa, như chúng ta biết, là “kim cương thần lực” mà Indra, chủ tể của các thần linh Verdic/ Mật tông đã xử dụng và khắc phục được những kẻ thù của chính ông và của trật tự đạo đức. Đặc tính vĩnh cửu bất diệt của Kim Cang thừa, từ sự kết hợp độc đáo của hình thức vững chắc với không gian nội tâm tạo cho nó thành một cái gì thật tiêu biểu đối với các Phật tử của họ. Nó cũng là biểu tượng của phái nam, lòng từ bi, những đường lối khéo léo đạt tới niết bàn. Trong những nghi lễ của Kim Cang thừa, thông thường có cái chuông đi kèm, như một tiêu biểu cho sự hiểu biết ‘toàn hảo’ của phái nữ hay còn được biết là Bát Nhã Ba La Mật – prajnaparamita.  Giống như rất nhiều biểu tượng của Mật tông, người nam và người nữ tượng trưng cho một sự hoà hợp của nhị nguyên mà bản chất là một. 

Bản văn quan trọng của Kim Cương Thừa là cuốn Kinh Hevajra Tantra, trong đó có đề cập đến mối liên hệ giữa thần hộ vệ linh thiêng Hevajra với bạn đồng hành của ông ta, nữ thần Nairatmya (về vô ngã).  Mục đích lớn của bản văn này là thống nhất nhận thức về luân hồi (samsara) với niết bàn (hay giác ngộ). Luân hồi được đồng hóa với “những phương cách khéo léo của lòng từ bi” và niết bàn là “trí tuệ”.  Theo như Kinh Hevajra, chỉ có các nghi lễ liệt kê trong Kinh sách này (Mật tông) mới kết nối cái quan điểm là  “không có gì khác biệt giữa niết bàn và luân hồi’. Bản chất này, là Thân Khẩu Ý của tất cả các vị Phật, không tách biệt, vững chắc như là “Kim Cang” hay thần lực.

Theo Kim cang thừa thì ngoài ba giới: dục giới, (kama-loka world of the senses,) sắc giới (rupa-loka- fine material world,) vô sắc giới,  (arupa loka, immaterial world) còn có thêm hai tầng trời xa hơn.  Ngự trên cõi trời cao nhất là Adi Buddha, hay Bản Sơ Phật  , do thiền định Ngài làm nổi bật lên  5  “conqueror” Buddhas (Jinas) ở tầng trời dưới. Các Chiến Thắng Phật, hay Jinas, là tứ phương Phật mà Vairocana, (Đại Nhật Như Lai) tượng trưng cho Pháp Thân hay Vô Ngã, ngự ở trung tâm điểm. Những vị Bồ tát như Avalokiteshvara (Quan Âm), Manjushri (Văn Thù Sư Lợi)  và  Samantabhadra (Phổ Hiền), đều ở trong các tầng trời bao quanh như những hóa thân của các vị Phật.

Khi Ngài Liên Hoa Sinh, vị thầy của Mật tông, đật chân đến Tây Tạng, Đạo “Bon”(Dị giáo), lúc đó đang thịnh hành, tin tưởng là những thần thánh và ma quỉ đòi hỏi ngoài những lễ vật khác phải có tế lễ bằng máu huyết của các động vật nữa. Thay vì  đối chọi và phá chấp những thực hành như vậy, Ngài Liên Hoa Sinh đã thương lượng với các đạo sĩ “Bon”.  Theo truyền thuyết, Pehar, một trong những vị thần có quyền thế nhất của Tây Tạng từ bỏ những đòi hỏi hy sinh đó để đánh đổi lấy sự bảo trợ của Phật Pháp.  Thay vi máu huyết của các sinh vật, vị thần này đã chấp nhận tánh ích kỉ của người dân Tây Tạng là lễ vật thay thế. Sự liên hợp tôn giáo này là căn bản trong giáo pháp của Tây Tạng – phần lớn các thần linh hay ma quỉ có trước thời của Phật giáo được trộn thêm vào trong Kim Cang Thừa hoặc được cho phép tồn tại song song với tôn giáo mới (Mật tông).
Do đó, một phần quan trọng trong Kim Cang Thừa là sự hiện diện của những vị thần khủng khiếp, dễ sợ.  Một trong những vị thần này là Mahaka (Đại Hộ Pháp đen), tuy dữ tợn nhưng lại hỗ trợ đắc lực cho vị thần Phật giáo, hoá thân của thần Shiva. Những đại biểu hung dữ của Phật có tới mười hai cánh tay mang nhiều biểu tượng khác nhau như trống, mũ hộp đầu lâu và những cây đinh ba được biết đến như là herukas (những thần Phẫn Nộ).  Một vị thần phẫn nộ này là Samvara: người hung dữ khủng khiếp là một khía cạnh khác  của Chiến Thắng Phật (Jina Buddha) ở phía Đông.  Những vị herukas lại có vệ nữ bên cạnh gọi là thần nữ dakinis; những vị thần dakinis này thường được mô tả là người có đầu tóc bù xù, với con mắt thứ ba, và đứng trong tư thế như đang nhảy múa.  Người ta tin rằng ngài Liên Hoa Sanh đã được những nữ thần dakinis giao cho những cuốn sách mà ngài dựa theo đó và lập nên căn bản cho lý thuyết Mật tông của ngài.  
Diện tiêu cực của những Bồ Tát cũng là do ma quỉ hoá thân.  Thí dụ như cái khía cạnh hung dữ của Ngài Văn Thù Sư Lợi, hay vị Phật của Trí Tuệ, là Yamantaka (Thần Chết).
Tất cả mọi người khi thực hành Kim Cang thừa đều được các vị thầy dậy Lama chọn cho một vị thần yi-dam (thần hộ mạng) như là phần khởi đầu của sự phát giới. Thần hộ mạng (yi-dam, god protector) này được thầy Lama chọn để phù hợp với cá tính riêng của mỗi cá nhân đệ tử.  Mỗi một Ngũ phương Phật đều có một vị thần Hộ mạng đầy giận dữ và  mỗi một thần Hộ mạng là tượng trưng cho một lỗi lầm về tâm thần tiềm ẩn trong cá nhân người đó, như giận dữ hay ghen ghét. Cộng thêm vào việc chọn thần hộ mạng cá nhân, các đệ tử còn nhận được những câu thần chú liên hệ tới vị hộ mạng đó.  Việc lập đi lập lại những câu thần chú với sự giúp đỡ của xâu chuỗi hạt, người mới phát giới sẽ hình dung được vị thần của họ một cách rõ ràng.  Thí dụ như nếu ông thần hộ mạng là Yamantaka (Thần Chết), thì người đệ tử mới, qua sự dậy dỗ của vị Thần chết này, sẽ có thể đạt được trí tuệ của vị Bồ Tát đối nghịch là Văn Thù Sư Lợi  (Manjushri). 
Bằng cách ráo riết thực tập Yoga về tinh thần và bằng thiền định để được có thể đồng hóa với vị thần cao nhất là khao khát của người đắc đạo cao trong Mật Tông.  Một phản ảnh quan trọng của Đức Phật  là Kim Cang Bồ Tát (vajira being, Vajirasattva) hay Kim Cang Hoá Thân (Vajira-holder, Vajiradhara). Tại trung tâm điểm của mô hình mandala có diễn tả những vị thần siêu đẳng hay những vị thần liên hệ trong thế ôm những vệ nữ coi đó mà siddha(/người đạt tới mức có thần thông) dùng như là những cỗ xe ( phương tiện) để đạt giác ngộ qua sự nhận diện với vị thần hộ mạng.
Bên cạnh việc phải thông hiểu rõ ràng các đặc điểm phức tạp của Mật tông, các đệ tử Tây tạng còn được huấn luyện về tâm linh theo cùng một đường lối như các Phật tử thời xa xưa. Họ thừa nhận thẩm quyền của và quy y Tam Bảo, hiểu rõ về Tứ Diệu Đế, biết phân tích Ba đặc tính của sự hiện hữu, thực tập tĩnh lặng, hành thiền minh sát, và thiền định trên sự chết. Những quyền lực rút tỉa ra từ Thần chú được thêm thắt vào với nền tảng chính thống vững chắc.
Kim Morris lược dịch
November 12 2012
Las Vegas NV  USA
********************************************************************
Trong truyền thống Phật Giáo Tây Tạng, trong trạng thái đầu của thiền mandala  luôn luôn có sự giám sat bởi một vị Lama vị này sẽ chọn cho đệ tử của mình một mandala chi phối bởi một trong Ngũ phương Chiến Thắng Phật five Jina Buddhas mà bề diện tối tăm của vị này tương ứng với lỗi lầm trọng yếu của người đệ tử.
Tất cả nhân loại được xem như thuộc về một trong Ngũ phươngThắng Phật năm, mỗi trong năm yếu tố của tư cách được liên kết cả một lỗi và một màu sắc biểu tượng.
Buddha                  Màu Sắc                 Uẩn              Lỗi lầm
Vairocana               trắng                      sắc               ảo tưởng
Ratnasambhava      vàng                       thọ               ác ý
Amitabha                đỏ                          thức             tham
Amoghavajra          xanh   blue              hành             ghen tị
Aksobya                 xanh dương            tưởng           giận dữ
Tibetan Meditating Mandala symbols: These are Five Jina Buddhas (conquerors of Ignorance) representing five factors of human personality or skandhas that link both to a fault and a symbolic color. These skandhas are: By association: Buddha: Vairocana (emptiness)- in the center - white - form - delusion. Ratnasambhava - yellow - feeling - ill-will. Amitabha - red - consciousness - greed. Amoghavajra - green - karmic deposits - envy. Aksobya - blue - perception - anger.
Laotzi:   Living harmony with nature...human and nature in Oneness
Confucius:  Living in harmony in an orderly society.
Buddhism gives foundation of the reality of life, concerning with freeing self from suffering.
In order for China to absorb Buddhism these all three doctrines have to co-exist in harmony.
Confucius creates ceremonial environment for their aristocrats in its application.
Tao gives philosophy that helps lifting up Confucius to higher level.
Buddhism gives Chinese divinities to worship. 
========

The Message of the Tibetans 1.- Buddhism (1966-1994)

http://www.youtube.com/watch?v=op1wigNCjOc

The Message of the Tibetans 2.- Buddhism (1966-1994)

http://www.youtube.com/watch?v=zUo73cx05OY

A documentary film of Arnaud Desjardins in English