Tuesday, July 2, 2013

Cảm Nghĩ về Chuyến Hành Hương Tứ Động Tâm – Ấn Độ


 
October 2010

Các Bạn Mến, có gì thiếu sót và không đúng thứ tự xin cho biết.

Trong email trước kb viết bằng tiếng Anh là do cảm xúc tự nhiên về một hành trình tâm linh. Thế nên khi diễn tả, kb cảm thấy Anh ngữ có hiệu lực trong vấn đề này nhiều hơn là Việt Ngữ. Xin quí bạn thông cảm.

Kb có duyên và quyết định nhanh chóng khi nhận được tin tức có một chuyến hành hương với nghi thức cầu nguyện hơn là du lịch sang Ấn Độ nhờ một vị chuyển thơ mời qua net. Nhưng thực ra nếu không có các Phật tích thì Ấn Độ không phài là nơi để đi du lịch.

Tuy chưa từng biết gì về Thầy Thích Tánh Tuệ hay Mắt Thương Nhìn Đời ở CA nhưng Kb không hề có sự dè dặt khi ghi danh tham dự cuộc hành trình này.

Kb rời CA vài năm trước nên chỉ theo dõi sinh họat cộng đồng bên đó qua net thôi. Vài năm về trước Kb cũng đã từng được vài bạn rủ đi hành hương Ấn Độ nhưng ngại vì rất sợ cảnh tả cực nhọc qua kinh nghiệm của những người đi trước.

Thế nhưng do sự thành kính nhớ ơn Đức Bổn Sư Thích Ca, Kb cảm thấy hồ hởi tham dự năm nay mà không có một mảy may lo ngại gì cả. Kb lại cố lôi cuốn rủ thêm một ông bạn đi theo nữa. Kb ngại rằng không đi năm nay chắc đâu có dip khác?

Người ta thường nói có duyên lắm mới tới được Tứ Thánh Địa của Phật:

Lumbini: Nơi Đức Phật ra đời
BodhGaya: Nơi Đức Phật thành đạo
Kusaranasi: Nơi Đức Phật chuyển Pháp luân cho 5 anh em Kiều Trần Như
Kushinagar: Nơi Ngài nhập Đại Niết Bàn.

Khởi hành 10/16 - trở về 10/31/2010

Nhờ sự hướng dẫn kinh nghiệm của Thầy T́anh Tuệ, và sự chăm lo chu đáo cho đoàn nên chúng tôi thấy rất là có phước. Thầy cho biết 50 người ghi tên, rồi rốt cuộc chỉ có 22 người có duyên nhập đoàn. Một cặp vơ chồng trẻ nhiệt tình từ Mỹ về VN đem mẹ già 80 tuồi cùng một bà cô theo đoàn. Sau khi kết thuć họ lại trở lại VN trước khi về làm việc lại tai Mỹ. Có một cô theo Công giáo nhưng đi theo hai vợ chồng anh chị đạo Phật. Theo cô ta kể, tuy cô baptised Thien Chua Giao nhưng cô có duyên với Đạo Phật hơn. Cô quỳ lạy, đọc kinh và hiểu Phật Pháp khá tinh tấn lắm.

Trong suốt chuyến đi, các Phật tử rất là nhiệt tình, thành tâm, hiểu đạo nên không có gì khúc mắc bất bình chi cả. Điều này Thầy rất hài lòng.Thầy Tánh Tuệ có một tour guide, tài xế xe bus và người phụ tá, họ là ngườì Ấn Đô hay còn gọi là Indies.Thầy mời thêm một thầy Lama Tây Tạng và một ni cô VN đang tu học tháp tùng pḥu với thầy làm lễ và lo cho đoàn đầy đủ. Thầy lại là một nhân vật văn hoa đa dạng cởi mở, vui vẻ, giảng Pháp rõ ràng. Cả đòan ai cũng đóng góp văn thơ, ca nhạc truyện trò vui vẻ, nên quên giờ ngồi lâu trên bus.

Nói chung các hotels và phương tiện xe bus chuyên chở không có gì để phàn nàn cả. Tuy tháng mười nhưng khí hậu bên Ầ́n vẫn còn oi bức như ở VN. May vừa hết mùa mưa chợ búa còn có ít rau như bông cải, cà tím, cà chua, dưa chuột, rau xanh, mướp bí...cho nhà hàng cung cấp cơm chay cho khách.

Nên nhớ quí vị ạ, khi sang nước Ấn, nơi địa ngục trần gian này, các bạn phải, khi bước lên máy bay tại phi trường USA, bỏ tất cả những tiện nghi của nước Mỹ lai sau lưng và chuẩn bị tinh thần cho chuyến đi vào lịch sử. Sau bao nhiêu năm tôi ngại tham dự; bây giờ tình thế khá hơn, các hotels và tour bus có máy lạnh đã làm giảm sự khó nhọc của hành trình này cho tôi.

Đến nơi New Dehli Airport, chúng tôi được tiếp đón và trao vòng hoa giao duyên. Ngủ qua đêm ở Hotel và sau khi ăn sáng, chúng tôi đi thăm Khải hoàn Môn, đền Tajmahal. Chiều tối khăn gói lên tầu xe lửa đi Varanasi hay thành Vương Xá. Sáng vô hotel tắm rửa rồi đi thăm viện bảo tàng nơi lưu giữ xá lợi của Đức Phật.

Chúng tôi ngồi trước tháp vàng, do vương quốc Thái Lan tặng, tụng kinh và thiền 10 phút. Sau đó thăm nới đức Phật gỉang pháp cho 5 anh em Kiều Trần Như, một ngôi đền của Thái Lan.Qua ngày tiếp chúng tôi lên xe tour bus sang Xá Vệ Thành.

Thầy kêu chúng tôi dạy thật sớm 5 giờ sáng để ra kip̣ đón bình minh trên sông Hằng. Trước kia tôi chỉ tưởng tới sông Hằng dễ dàng, và sẽ thấy cảnh như qua hình trên net. Nhưng khi xe bus drop chúng tôi xuống, họ phải đậu xe ngoài phố cách sông một con đường. Lúc trời còn loạng choạng tối, phố xá chen chúc vì rất nhiều dân Ấn cũng đổ ra bến để ra sông cầu nguyện. Vì vậy chúng tôi phài cố gắng đi nhanh, mắt chăm chú nhình xuống lộ, để khỏi đạp lên các phân uế của mọi loài. Mùi hôi tanh của tất cả mọi phế thải cuồn cuộn tuy trong một buổi sáng tinh sương. Các bà, các cô người địa phương mặc áo Sarhi nhưng đi chân đất hồ hởi lũ luợt đi về hướng sông Hằng.

Qua sang khỏi con đường đông nghẹt, chúng tôi được dẫn qua một khu nhà với ngõ hẹp, và lại phải coi chừng khỏi dẫm lên ćac bãi "mìn mềm." Tới nơi, chúng tôi phải leo xuống hơn chục bậc thang rồi mới tới thuyền để leo vô ngồi. Thật là phải qua 3 cửa ải mới tới nơi linh thiêng.

Hôm đó, nước thuỷ triều lên cao, không có thiêu xác đang tiến hành, nhưng chính mắt tôi thấy hai xác chết bó trôi ngang. Chúng tôi lên thuyền, Thầy tụng kinh Vãng Sanh, cầu cho vong linh người đã khuất, rôì mọi người thả nến trên sông. Khi Thầy lên tiếng tụng bài kinh, tôi không cầm được xúc cảm và bật lên nức nở, cảm thấy lòng quặn đau. Nếu được và không làm cho bạn cùng đoàn cảm xúc, tôi muốn khóc to hơn lên và khóc cho hết nước mắt lúc bấy giờ. Đến vài tối sau, nghĩ đến cảnh của dân tình nghèo khổ, tôi lại rướm nước mắt, tim đau nhói. Và vì thế tôi khuất mặt trong các chương trình phát chẩn sau này. Tôi thật là người dễ khóc.

Sông Hằng không phải là Phật tích. Nhưng khi Đức Phật giảng Ngài hay dùng cát sông Hằng làm tiêu chuẩn đo lường khổ aỉ trần gian. Ngài cũng từng tắm nơi đây. Nhưng chỉ có một khúc sông này coi là linh thiêng nhất. Người ta xuống tắm và mang nước sông về uống.

Sau khi rời sông Hằng chúng tôi khởi hành đi Sravasti, Thành Xá Vệ̣, đến thăm nơi Đức Phật thi thố thần thông với ngoại đạo, Kantamjetiya, Kỳ viên tịnh xá, Jetavana, thăm nhà trưởng giả cấp Cô Độc, Anathabindika. Nên nhấn mạnh là kiến trúc thời Phật Thích ca rất kiên cố, phần lớn là gạch nung đỏ, chồng chất làm nhiều lớp rất dày để chống nắng, tránh mưa và lạnh.

Kỳ viên tịnh xá thật là êm ả, thanh tịnh. sạch sẽ. Xin ghi chú là tất cả các thánh địa do người Hindu cai quản. Tới nơi khi trời mới sáng đã có một đoàn chừng 300 Sư Tăng, và Phật tử Sri Lanka trong đồng phục trắng tinh đang đi kinh hành tụng niệm nhẹ nhàng.

Đoàn chúng tôi tới cội Ananda Bodhi tree, đi diễu ba vòng và toạ ngồi dưới cây tụng kinh và thiền định.Sau đó, chúng tôi đi kinh hành tới thăm tịnh xá cuả Đức Phật, lễ lạy và thiền định. Nơi đây đức Phật và tăng đoàn của Ngài đã trú ngụ rất nhiêu năm. Tại đây Đức Phật đã giảng nhiều bài kinh quan trong, như Kinh A Di Đà. Phật tử hành hương trải hoa đầy trên nền để dâng lên lòng tri ân với Ngài. Gần nơi tịnh xá của Đức Phật là tịnh xá của Ngài Ananda. Trước bên kia là một giếng nước khá to, mặt giếng được rào kín. Phần lớn các thánh địa bị Hồi quân tàn phá, chỉ còn nền gạch trơ truị thôi.

Nói chung nơi các vườn của tăng đoàn thới bấy giờ có nhiều toạ cụ xây bằng gạch đỏ, chắc để cać đại đệ tử ngồi thiền hoặc để thuyết pháp giảng luận với quần chúng. Sau đó chúng tôi đi thăm ngôi nhà của Ngài Cấp Cô Độc. Bây giờ chỉ còn là nền nhưng vẫn còn vẻ đồ sộ. Dưới nền nhà là hai hố sâu, đó là nơi Ngài chứa các đồng tiền vàng dùng để rải kín vườn mua lại của vua để làm tịnh xá cho Phật và tăng đoàn.

Trở lại nơi cội bồ đề do Ngài Ananda trồng để tưởng nhớ tới Đức Phật một khi Đức Phật đi giảng Pháp nơi xa.Trong lúc đoàn chúng tôi ngồi tụng kinh và thiền định có xảy ra hai sự kiện khác thường. Sự kiện này, một là do chính tôi chứng kiến và quan sát. Một là xảy ra ngay cho ông bạn đồng hành.

Trên đường phố, trong công viên Ấn Độ, có nhiều súc vật như chó, heo, dê, bò trâu, gà...sống lẫn lộn với người dân một cách hiền hoà như một đại gia đình.

Khi bước tới cội cây bồ đề, tôi có thấy vài chú chó lảng vảng trong đó. Sau khi hết tụng kinh và bắt đầu thiền định, tôi thấy một con chó đen, có vài điểm lông trắng, rong ruổi bước tới trước hàng ngồi của sáu phật tử hàng sau cùng. Trong đó có tôi ngồi chính giữa. Anh chó này đến qùy hai chân sau, trước một Phật tử ngồi bên trái của tôi. Anh ấy lấy tay trước khều mặt cô lấy sự chú ý, rồi để tay của anh lên tay lòng bàn tay trái của cô một vài giây lâu, sau đó anh ta đổi sang tay phải thiền vài giây với cô ta. Vẻ mặt của anh chó này rất là hiền từ và sống động lắm. Anh chuyển sang một Phật tử cuối hàng ,dừng đó không lâu rồi trở lại nơi bà ngồi bên cạnh bên phải tôi. Bà này là mẹ của cô ngồi bên trái lúc nãy. Anh chó tới trước bà, cúi đầu kính cẩn, dung mạo rất thuần thục,bà vuốt mặt anh, cầm tay anh chú niệm vài giây nữa. Anh lại đi ngang tôi, không dừng mà tiến tới cô nơi đầu hàng và cũng ngồi thiền một chút rồi đi ra ngoài.

Các bạn nghĩ thế nào? Có phài đây là một luân hồi dữ kiện hay một ESP giữa vật và người?

Trong khoảng thời gian thiền này, phiá hàng đầu tiên là nơi ông bạn đang ngồi. Sau này anh ấy kể lại trên xe cho cả mọi người cùng chia xẻ kinh nghiệm hiếm có. Là khi đang chăm chú thiền định, anh thấy trước mặt một bình bát đầy nước, trên mặt nước có bọt váng bèo lăn tăn. Váng bèo này từ từ tan đi, còn lại các hột như hột tiêu đen rồi dần dần các hột này lắng xuông tan đi mất và nước trở thành trong. Cùng lúc đó, anh càm thấy mặt đất rung động như có động đất xảy ra dưới chỗ ngồi. Khi ấy Thầy giải thiền. Anh kể là anh rất lơ là do dự, không muốn đi chuyến hành hương này lắm, nhưng bị tôi thúc đẩy, sau cùng thu xếp công việc nhà êm thắm nên mới đi được.Tiếp tục cuộc hành trình sau khi rời sông Hằng. Chúng tôi lên xe lửa đi về phía bắc của Ấn Độ nơi Tứ Động Tâm mà người con Phật có duyên mới tới được.

Qủa vậy, muốn đến nơi đó, từ thành Xá Vệ, chúng tôi phải đi xe lửa vào buổi tối, ngủ đêm trên tàu. Chuyện ngủ trên tàu không phải là trở ngại. Khi đã lên trên băng và có giường ngủ là yên trí. Khổ ải là đi bộ từ ngoài đường vào nhà ga trong bóng tối không đèn sáng, lo cho hành lý chuyển lên tàu hoàn tất. Có vài vị mang theo đèn pin và chúng tôi lại phải chăm chú không dẫm lên phân uế. Chuyến xe lửa dài khoảng 10 tiếng đồng hồ. Thầy Tánh Tuệ, vị La Ma và Ni Cô cùng người tour guide lo hết mình cho chúng tôi được an tòan. Các người Ấn lao động khuân vác hành lý cũng rất đắc lực vì đó là công việc quen của họ. Trông vậy chứ cái cổ gà gầy gò của họ có một sức mạnh khuân vác rất hay. Tới sáng chúng tôi vào khách sạn để thay quần áo,ăn sáng và nghỉ ngơi vài giờ. Tôi phải lấy khăn uớt lau va li đầy bụi đường trước khi mở lấy quần áo ra thay.

Ngay hôm sau sáng sớm chúng tôi lên đường bằng tour bus về hướng Lumbini, nơi Đức Phật đản sanh. Chuyến xe bus đường trường rất dài. Qua nhiều làng phố tiêu tàn bui bậm, bùn lầy. Người dân phế thải tự nhiên bất cứ chỗ nào, không cần che dậy.Người dân Ấn Độ không hề được chính phủ lo cho đầy đủ kể cảnhững phương tiện căn bản về nhân bản của con người.

Đường xá, cầu qua sông rất hẹp. Những con đường vá víu, lồi lõm,hàng quán nhô nhấp. Thế mà chúng tôi không quan tâm, không hề lo sợ tai nạn xảy ra. Vì mỗi ngày trên xe, chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình bằng tụng Chú Đại Bi. Vì̀ Thầy cùng Phật Tử sinh hoạt ca hát, chuyện trò nên quên không để ý bên ngoài đường. Có khi chúng tôi chứng kiến hai xe đi ngược dòng, tửơng đâm đầu vào nhau thế mà tài xế họ lách qua như không có chuyện chi. Chúng tôi chỉ biết thở phào. Quả dân Ấn lái xe lão luyện. Cả một cuôc hành trình không hề thấy một tai nạn xảy ra dù cho xe lớn hay nhỏ, hay người bộ hành, xe đạp.Tất cả được tôn trọng trong khoảng cách của họ khi di chuyển trong thành phố. Cả những con lừa, con bò, và trâu hay dê, cùng khách bộ hành ung dung đi lại, các xe lớn sẽ tránh không đụng tới họ. Anh tài xế tour bus của chúng tôi luôn luôn bấm còi cho chắc ăn.


Có nhiều chặng trên đường mùi khai nồng của phố xá quyện thêm mùi bụi tung lên hai bên đường vẫn lọt vào xe qua khe cưả sổ.Chúng tôi ngó qua cửa xe thăm quan. Nhà cửa tệ hại, chỉ là các mảnh gỗ, mái tranh, vải vóc vụn vá víu che đậy. Cónhà xây bằng gạch nhưng chỉ là bốn bức tường trống rỗng. Vì quá nghèo, không đủ vật dụng xây cất, nên các nơi thờ phượng và các tượng của họ cũng rất thô sơ, trông thảm não. Cả làng mới có một giếng nước. Vách tường được bao phủ bằng các bánh phân bò, một phương cách phơi khô. Họ dùng phân bò để thay cuỉ nên có khi cơm hay thức ăn có mùi này. Có nơi các súc vật như heo rừng, trâu bò, dê, chó xúm quanh các ổ rác moi móc. Không hiểu rác ở Ấn Độ có còn gì để mà moi nữa. Dân tìnḥ sống chung với súc vật và rác như một đại gia đình. Và đôi khi trên cạnh đống rác, một em trai nằm quay ra ngủ êm ru. Hoặc có nơi một xác chết của một người đàn ông khô cằn, một chân co rúm lên không. Có lúc không thể chịu được tôi phải kéo màn cửa xe để khỏi nhìn thấy quang cảnh chật vật của người Ấn. Họ cũng từng là người đồng hương với Đức Phật, hoặc biết đâu họ cũng từng là bà con của mình đời kiếp trước chăng? Phải chăng người Ấn Độ chịu đựng số phận của họ vì những người Bà La Môn cao tộc phán cho họ rằng đó là nhân quả họ phài chịu vậy cho hết kiếp? Vì thế họ bình thản sống qua ngày, không còn cái khổ nào làm họ khổ hơn nữa. Thật phải công nhận người Ấn có một tâm linh siêu thực.

Suy nghĩ lại, trong Kinh Phật giảng phải quán các giác quan của mình, tất cả chỉ do thọ và tưởng mà ra. Tất cả sẽ qua đi, và trở thành KHÔNG. Có gì mà lo, mà sợ, mà vương vấn? Tôi sực nhớ lại một buổi thiền trong chùa bên USA nơi tôi hay tham dự,một vị ni cô chạy xuống bếp vặn quạt lên thật mạnh để xua mùi chiên của tempura vì sợ làm phiền đến các thiền sĩ trên chánh điện.
Chúng tôi tới Kushinagar đảnh lễ Đức Phật, nơi ngài nhập Đại Niết Bàn. Hoa sen và y trang sẵn sàng, chúng tôi sắp hàng hai, kính cẩn bước vào trong điện, đắp y lên bức tượng nằm của Ngài, rồi diễu ba vòng quanh tượng, niệm Nam Mô Thích Ca Bổn Sư Mâu Ni Phật. Trong cùng lúc đó có nhóm các vị sư Tây Tạng, nhóm Phật tử Đại Hàn (?), ba là nhóm chúng tôi, đồng quỳ dưới sàn. Trong cùng một lúc tất cả mọi người đều tụng danh hiệu Ngài, tiếng hùng dũng của các sư tây Tạng, cùng nhị̣p điệu trầm bổng của tiếng Đại Hàn và tiếng chuông, khánh của VN. Tất cả hoà hợp thành một âm thanh của bi, trí, dũng càng lúc càng to rồi chấm dứt.



Ngay lúc này tôi cảm thấy có một yên tĩnh tuyệt đối, tuyệt diệu. Các nhà sư Tây Tạng giảng đó là một hoà hợp tột đỉnh của âm thanh và tính "không", một trạng thái quân bình, equanimity, vi tế.Chúng tôi thay nhau đảnh lễ Ngài lần cuối, mắt ai không nhoà lệ? Một Người Cha nằm đó, bao con thương nhớ. Ngài chắc cũng biết các con thương kính lòng từ bi của Ngài, muốn về chung nơi Ngài ngự, nhưng sao chúng con còn trầm luân mãi mãi nơi chốn ta bà này? Sau đó chúng tôi đi thăm khu vườn xung quanh. Hai cây Sa La còn đó, nhưng muà này không có hoa tuy rất xanh lá.
Những cảm xúc nơi đấy đã được làm nhẹ bớt khi chúng tôi tới nơi Đức Phật đản sanh. Trong đó là một ngôi nhà bảo tồn di tích dấu chân đức Phật. Cây Vô Ưu khi mẹ đức Phật tưạ dưới đã được Ấn Độ tặng cho Nhật Bổn. Bến ngoài là một cột trụ do vua Ashoka xây dựng để tôn công đức của Đức Phật. Chúng tôi lưu lại đây một ít lâu, mỗi người tìm một vị trí để thiền định dưới các cội bồ đề. Ngoài nhóm chúng tôi, có vài nhóm của người Thái, SriLanka, cũng tới bao quanh cột trụ tụng kinh và nghe Sư Tăng của họ giàng Pháp.

Thầy Tánh Tuệ hướng dẫn chúng tôi thăm viếng một vài ngôi chùa VN gần đó. Chùa Linh Sơn sẽ khánh thành tháng 11 2012 và sẽ thỉnh Phật Ngọc về đó nữa. Trên đường hướng về Bồ Đề Đạo Tràng, chúng tôi ngủ đêm tại chùa Kiều Đàm của các ni cô từ VN sang tu tập. Một công trình xây cất rất bao la, kiên cố, có tháp cao, tường đá khắc Kinh DP Liên Hoa. Phần lớn nhân công là những anh Việt Nam sang làm với thời hạn tiêu chuẩn 3 tháng visa. Ngày khánh thành cũng khoảng tháng 11 năm 2012. Chuà VN Quốc Tự khá uy nghi và có nhiều đặc tính VN, với vườn trúc, các tượng voi, hạc, nai, lối đi quanh co...

Tiếp tục hành trình, nơi chúng tôi dừng chân hai ngày gần nuí Linh Thứu. Sáng sớm chúng tôi lên xe hết gần 10 phut. Đừơng lên núi được sửa sang với các cấp bậc thang thoai thoải khá dài. Vậy mà chúng tôi phải dùng gậy leo lên, và dừng chân hai lần trước khi lên tới đỉnh. Trên đường lên cao, các bạn thấy hình một tảng đá chơi vơi trên núi có hình mỏ chim, giaỉ thích sao gọi nuí là Linh Thứu. Mặt trời đã bắt đầu lên cao. Chúng tôi dâng hoa, quì lạy và tụng kinh. Sau đó chúng tôi tìm một chỗ ngồi tụm lại thực tập thiền 10 phút. Núi Linh Thứu nơi Đức Phật giảng một bộ kinh Đại Thừa, một tiếng rống của Sư Tử, cho các vị Bồ Tát biết rằng các vị nên tu thành qủa Phật: Vì ai cũng có Phật tính tự nhiên. Đó là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà chúng ta tụng hằng ngày ngày nay và kế tiếp mãi mãi.

Vì kinh nghiệm trước, anh hướng dẫn du lịch đã mua bưởi đem lên núi trước. Trời bắt đầu nóng hơn lên, chúng tôi bóc bưởi ăn giải khát. Mọi người thích thú, nhưng chỉ thiếu ít muối ớt. Lúc xuống núi chúng tôi dừng lại để thăm hai hang động của Ngài Xá Lợi Phật và Ngài A Nan Đà. Hai bên đường đã đầy các người ăn xin. Để ý tôi thấy phần lớn là các bà già nua trong sarhi lê lết ngửa tay xin tiền. Các bạn mến, không sao đâu, các bạn mủi lòng thương xót cho họ một tờ 10 rupee túi tiền của bạn chẳng vơi đi là bao. Ngày hôm sau sớm hơn hôm trước. Thầy dẫn chúng tôi trở lại núi một lần nữa. Tôi vì mệt nên xin ở lại hotel. Lên xe bus tiếp tục xem các di tích khác vảo buổi trưa Chúng tôi đi tới thăm nơi Đức Phật tu khổ hạnh 6 năm. Tuy gọi là Rừng Khổ Hạnh, nhưng thực ra động ở trên cao, nơi đây có hai động nhỏ sát nhau. Bên trong có hai tượng, một tượng khổ hạnh và một tượng ngồi thiền. Đường lên nuí khá dốc, một em Ấn phụ đẩy sau lưng cho tôi leo lên. Lúc xuống núi cũng em này phụ một tay cho tôi đi xuống. Các em dịch vụ du khách một cách vui vẻ hồn nhiên. Thực ra người Ấn Độ có bản chất bất bạo động. Để ý xem khi nào bạn thấy họ ngoắc ngoắc cái đầu. Ai không biết cho họ là negative. Nhưng ngược lại, đó là cử chỉ đồng ý, đồng tình với người đối thoại hay giao dịch. Nơi đây cũng là nơi rất nhiều ăn xin, họ tranh dành nên phải cẩn thận. Các em mù loà, hai tay đánh trống, miệng tụng Nam Mô A Di Đà Phật hay là Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Thật tội nghiệp. Mong sao các em kiếp sau được sinh nơi cõi an lành hơn.

Đi hành hương mà không thăm NaLanDa, việng đại học cổ thì uổng lắm. Nghe nói Viện đại học nay đang được khai quật thêm lên. Thật là một công trình vĩ đại có quy củ. Chứng tỏ một thời vàng son của Giáo Pháp, nơi các vị mười phương tới tìm và học đạo bao thế kỷ sau khi Phật nhập Đại Niết Bàn.

Tới hotel nơi Bồ Đề đạo Tràng sau khi ăn trưa và nghỉ ngơi, Thầy cho chúng tôi đi tour, thăm thành phố, thăm một vài ngôi chùa xung quanh như nơi có tượng Phật ngồi thiền cao nhất của Nhật Bản; chung quanh là các tượng đứng của 10 đại đệ tử của Ngài. Một trong những chùa khá rộng và thanh lịch là chùa thờ Ngài Huyền Trang của China. Chúng tôi cũng đến thăm chùa chính của Tây Tạng, nơi Ngài DaLaiLaMa và Ngài Kamarpa 17th mỗi năm khoảng tháng 11 về hội để lễ Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng và giảng Pháp. Có khoảng gần 100 cậu bé, phần lớn là người Nepal đang được tu học tại đây. Các cậu trong áo cà sa đỏ, đứng xếp hàng ngoài vườn và hân hoan nhận cúng dường của Phật Tử trong đoàn. Với tờ giấy mới tinh, họ cḥay đi mua kẹo trong khu vực sinh hoạt của chuà. Thật ngây thơ và dễ thương. Tới giờ tụ tập trong chánh điện, các cậu ai nấy ngồi vào vị trí của mình trước kệ sách kinh. Thầy Tánh Tuệ nhẹ nhàng đến từng người phát quà cho các em. Đối với họ, Thầy như một người anh trong nhà.

Trong ba ngày kế tiếp đoàn chúng tôi sinh hoạt sáng và tối tại Bồ Đề ĐạoTràng. Tuy có thể đi bộ từ khách sạn tới đây, nhưng vì trời nóng bức, bụi bậm, đường xá khó đi, chúng tôi đi bằng tour bus, hoặc xe lam, xe xich lô cho tiện. Trước khi vào cổng, chúng tôi phải để giầy dép bên ngoài. Vì biết trước, phần lớn chúng tôi mang vớ cho sạch chân.

Bên trong BĐĐT tuy có vẻ tấp nập nhưng hoàn toàn thanh tịnh.Tháp toà nơi có tượng Phật hiện đang được chính phủ Ấn bổ túc thêm trên từng cao nhất. Nơi đây, mỗi sáng các đoàn hành hương dâng hoa tươi như hoa nhài, hoa vạn thọ, hoa sen, và dâng y lên Ngài Bổn Sư Thích Ca. Khi một phái đoàn dâng y, vị sư trụ trì tại đó sẽ đắp y ngay lên tượng Phật cho họ chứng kiến. Cứ sau khi được 10 lớp y, thì vị trụ trì sẽ mang xuống và người nào muốn thỉnh một bộ về nhà chỉ phải trả một lệ phí rất khiêm nhường, hoặc tuỳ hỉ cúng dường.

Tượng Phật Ngoc̣ Hòa Bình được tạc theo tiêu chuẩn của tượng tại BĐĐT. Nhưng khi bạn đứng tại đây, ngắm nhìn chân dung Ngài bạn sẽ cảm thấy không một tượng nào so sánh với tượng này được. Chỉ có một không hai mà thôi. Truyền rằng khi Ngài Ashoka xây tháp dâng Phật, dân làng thời bấy giờ muốn có một tượng của Ngài để thờ phượng bên trong. Họ dao truyền để tuyển người có tài giỏi nhất khắc tượng làm sao có thể biểu lộ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp của Đức Phật cho mọi người hướng về Phật tổ. Tự đâu có một điêu khắc gia nhận đứng ra nhận trách vụ này với điều kiện là không ai được xem công việc tạc tượng trong 3 tháng làm việc trong phòng kín. Sau hơn hai tháng nóng lòng, dân làng vì không kiên nhẫn tới tháp tông cửa vào, người tạc tượng đã biến mất. Tượng chưa hoàn toàn xong...Truyền rằng người điêu khác gia đó là Ngài Di Lặc, Matreya. Đứng dưới chân tượng, ngó lên, bạn sẽ cảm nhận ánh sáng từ bi của hai đôi mắt trong xanh cúi xuống trần khổ ải. Mũi thẳng cân đối với khuôn mặt không tròn, không dài. Miệng mỉm cười với vẻ bao dung.

Xung quanh tháp có khắc nhiều hình các tượng đủ hình thức, to, nhỏ,đứng ngồi v.v. Bên ngoài có một tượng của Ngài Avalokiteshvara, hay còn gọi là Quán Thế Âm, nơi nhiều người cho rất linh thiêng. Có tượng được nhiều người cúng lạy và dâng hoa hơn các chỗ khác. Chỉ là do truyền khẩu và lòng tin nên phân biện. Theo tôi nghĩ Phật nào cũng chỉ là một Phật mà thôi. Phật tự trong tâm, chỉ đợi đúng duyên đúng lúc là phát lộ, cứu mình và cưú chúng sinh.

Trong buổi sáng mát mẻ, các đoàn hành hương tự tìm chỗ tụ nhau lễ lạy và tụng kinh, ngồi thiền. Tiếng tụng kinh của nhiều thứ tiếng không còn có sự phân biệt trong cùng một âm thanh của từ bi, của tâm thành hướng về Đức Bổn Sư Thích Ca. Nhưng có một âm thanh vang lừng cao hơn cả là của ngàn con chim sẻ trên cội Bồ Đề líu lo ca tụng đức Thế Tôn. Chúng đến để chào mừng ca hát cho Ngài và tất cả hiện diện nơi BĐĐT.

Đoàn chúng tôi, được sự sắp xếp của Thầy Tánh Tuệ, mỗi người cầm 10 phong bì dựng rupees. Chúng tôi từng ngườì tự cúng dường các vị tăng ni đang tu tập chung quanh đạo tràng. Có vaì vị Phật Tử thấy còn thiếu, ngày hôm sau họ tự nguyện trở lại và cúng dường thêm. Trong thời gian này một đoàn Tăng của Tay Tang liên tục cầu nguyện cho hoa bình thế giới. Có thể họ tiếp tục thay nhau tụng liên tiếp trong một thời gian dài. Bên ngoài rìa các sư giả cũng khoác aó đỏ, vàng lảng vảng xin tiền.

Trong ngày, các bạn sẽ thấy có nhiều đoàn hành hương của người Hindu tới thăm. Họ đi ngay hàng, ghé vào nơi tượng Phật chính, tay họ chạm đỉnh đầu, rồi chạm xuống đất, một cử chỉ kính trọng trước một vị Thần. Sau đó họ ra hồ để nhúng chân gần đó. Hồ này là nơi Đức Phật khi thiền gặp một cơn bão, Naga một rắn thần lấy thân quấn lấy ngài để khỏi bị ướt. Theo như Thầy Tánh Tuệ nói, Đức Phật là vị thần thứ 9 của Ấn Giáo. Thật chớ trêu, họ chỉ cho Đức Phật là vị Thần, mà không để tâm theo Giáo Pháp của Ngài. Chỉ 2.7 phần trăm người Ấn theo Đạo Phật mà thôi.

Một trong những buổi sáng đó, dưới cội bồ đề, một hay hai vị Phật Tử nữ của một đoàn VN khác xuống tóc quy y tại đây. Trong giờ ăn trưa nơi đây vắng bớt nhưng cũng là lúc bạn có thể ngồi nghỉ chân bên dưới gốc Bồ Đề, hưởng khí mát của cây tỏa ra. Thinh thoang những con chim rào rạc cành làm rụng một chiếc lá, đó là điềm lành cho ai nhặt được.

Buổi tối tại BĐĐT chúng tôi tham dự hoa đăng, mỗi người cầm nến xếp hàng đi diễu xung quanh tháp. Lúc này đèn thắp sáng khắp nơi. Đến 9 giờ tối Đạo Tràng đóng cửa, chỉ còn lại những nhà tu sinh hoạt bên trong cho tới 4 giờ sáng hôm sau.

Ba ngày trong BĐĐT đã giúp đoàn chúng tôi dưỡng sức, sửa soạn chuyến xe lưả lần nữa về New Dheli .

Chỉ còn một ngày nữa là ra phi trường, Thầy Tánh Tuệ dẫn chúng tôi đi xem một ngôi đền mới, một kỳ công rất rộng lớn, tốn cả nhiều tỉ đô la. Có thể coi đây như là điện Versailles của Pháp. Đó là đền Bhagwan Swaminarayan AkshardhaM. Họ thờ một vị thánh đắc đạo thời 1781-1830 CE. Trong đền này, bạn được hướng dẫn đi thuyền như cảnh trong Disneyland để biết tiểu sử của vị này. Vé vào cửa khá đắt so với cuộc sống của dân Ấn. Tôi thầm hỏi không biết dân nghèo Ấn bao giờ mới được vào tới đây, thăm vị thần thứ 10 của họ?

Chiều tối ra phi trường, qua khỏi quan thuế, vô bên trong chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Tới phi trường S Korea mọi người được vài tiếng đồng hồ duỗi tay chân, nghỉ ngơi, thưởng thức món ăn Đại Hàn trước khi lên máy bay. Quả thật, thiên đường và địa ngục chỉ cách nhau một ngày bay.

Nước Ấn Độ, theo KM nghĩ, luôn luôn là nơi các Bồ Tát xuống trần để tu lần cuối giáo độ và làm gương cho các chúng sinh trước khi thành Phật.

Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha

Chúc các bạn ngày an lành, đêm an lành.
kb

No comments:

Post a Comment