Chúng tôi sẽ tập trung
vào các lý do tại sao thuật ngữ Lão Trang“Vô” lại được sử dụng để diễn giải thuật
ngữ शून्यता‘Śūnyatā’
Không tính trong tư tưởng Bát Nhã. Phương tiện cho công việc nghiên cứu của
chúng tôi là một nghiên cứu so sánh giữa शून्यता‘Śūnyatā’
Không tính và “Vô”.
Khi Phật giáo du nhập vào Trung
Quốc thì 儒敎Nho
giáo và 道敎Đạo
giáo đã có ảnh hưởng lớn trong đời sống văn hoá và xã hội nơi đây. Nhưng tư tưởng
Phật giáo lại thể hiện một thách thức mới và đầy khó khăn để có thể lĩnh hội đối
với các học giả Trung Quốc vì các khác biệt thực chất về cấu trúc ngôn ngữ giữa
tiếng Trung Quốc và tiếng Phạn Ấn Độ, vì vậy mà họ đã tìm đến một “bộ lọc” thân
quen để giúp hiểu được các kinh điển Phật giáo. Về phương diện này, 老莊思想Lão Trang tư tưởng (Tân
Đạo giáo) đóng một vai trò to lớn trong việc trợ giúp diễn giải các văn bản Phật
giáo Ấn Độ, vì thông qua quan điểm Lão Trang mà người Trung Quốc đã có thể bắt
đầu hiểu được Phật giáo Ấn Độ, mặc dù quan điểm Tân Đạo giáo không đủ để tiếp sức
cho vịêc diễn giải chính xác các kinh điển Phật giáo. Các thuật ngữ chẳng hạn như 無vô, bị người Trung Quốc
diễn giải sai như là một từ đồng nghĩa với शून्यताŚūnyatā (空 Không tính)mượn từ tư tưởng Lão Trang để hiểu tư tưởng प्रज्ञाPrajñā 般若Bát Nhã Phật giáo. Tuy nhiên,
sau này, khi rõ ràng có những sai sót trầm trọng trong các bản dịch sớm, đặc biệt
liên quan đến khái niệm Śūnyatā,và việc hiểu chủ yếu dựa trên tư tưởng Lão
Trang, thì các thuật ngữ Lão Trang này đã được bỏ đi và thay bằng các bản dịch
chính xác hơn. Trong số các học giả Phật giáo Trung Quốc thời gian đó, nhà sư
Tăng Triệu được coi là có tuyệt kỹ trong động thái hiểu và diễn giải tư tưởng
Śūnyatā Không tính, nhờ có các bản dịch thiên tài của ông, các Phật tử Trung Quốc
cuối cùng cũng có thể hiểu được các kinh điển Phật giáo.
I. Giới thiệu
Trong vòng mấy trăm năm từ 後漢 cuối triều Hán đến triều 東晋 Đông Tấn, Khổng giáo bước vào
giai đoạn suy tàn và các trí thức tìm kiếm cách sống cộng đồng thông qua Đạo
giáo. Trong thời gian này, Đạo giáo đã tích hợp với Khổng giáo thành một tư tưởng
mới gọi là 玄學 Huyền
học đang kỳ hưng thịnh. Đồng thời Phật giáo cũng hưng thịnh và bắt đầu được xác
lập trong xã hội Trung Quốc cùng các trào lưu mới khác trong tư tưởng Trung Quốc.
Tuy nhiên tư tưởng Bát Nhã chính là ánh sáng dẫn đường trong giai đoạn này. Để
hiểu được tư tưởng Phật giáo Trung Quốc thì cần phải nghiên cứu nó kết hợp với
các loại hình và đặc trưng tư tưởng Trung Quốc truyền thống khác. Phương tiện
mà chúng tôi sẽ sử dụng để làm công việc này là xem xét quá trình tiếp nhận tư
tưởng प्रज्ञाPrajñā
Bát Nhã sớm tại Trung Quốc. Nghiên cứu của chúng tôi, trước hết tập trung vào
các khác biệt văn hoá giữa các văn bản Phật giáo gốc và các bản dịch tiếng
Trung Quốc sớm; thứ hai, chúng tôi sẽ xem xét các nguyên do tại sao Tân Đạo giáo
lại hưng thịnh trong môi trường xã hội thời đó nhưng lại cũng liên quan đến việc
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Phật giáo. Và cuối cùng chúng tôi
sẽ tập trung vào các lý do tại sao thuật ngữ Lão Trang“Vô” lại được sử dụng để
diễn giải thuật ngữ शून्यता‘Śūnyatā’
Không tính trong tư tưởng Bát Nhã. Phương tiện cho công việc nghiên cứu của
chúng tôi là một nghiên cứu so sánh giữa शून्यता‘Śūnyatā’ Không tính và “Vô”.
II. Việc dịch Kinh Bát
Nhã
Sẽ là công bằng khi nói rằng Phật
giáo Trung Quốc luôn luôn có một lập trường độc lập so với Phật Giáo Ấn Độ, mặc
dù về cơ bản thì nó vẫn luôn luôn trung thành với kinh điển gốc Ấn Độ. Nhưng về
phương diện triết học, Phật giáo Trung Quốc có một bản sắc văn hoá mạnh và vì
ngôn ngữ Trung Quốc rất khác với ngôn ngữ Phạn Ấn Độ nên việc dịch trực tiếp,
theo nghĩa đen các kinh sách Phật giáo là không thể, với mục đích là các nhà Phật
học Trung Quốc cần phải dựa vào sự hiểu biết triết học hơn là bản thân ngôn ngữ.1
Ngay từ rất sớm khi Phật giáo Ấn Độ lần đầu tiên được biết đến ở Trung Quốc thì
các mối quan hệ văn hoá đã được xác lập trên cơ sở diễn ngôn Lão Trangthể hiện
rõ ràng trong các bản dịch tiếng Trung của các bộ kinh. Vì vậy mà thuật ngữ Lão
TrangHuyền học lần đầu tiên đã được chấp nhận khi không có ưu quyền để làm rõ sự
mắc lỗi của chúng. Vì sự mắc lỗi cơ bản trong việc chọn thuật ngữ huyền học nên
người Trung Quốc đã đưa ra một cách diễn giải hoàn toàn khác đối với bộ kinh được
dịch. Ở đây chúng tôi sẽ xem xét các vấn đề dịch đã tác động ảnh hưởng như thế
nào đến các thái độ và việc hiểu về Phật giáo Trung Quốc trong mối liên hệ với
Phật giáo Ấn Độ gốc. Vấn đề đã được các học giả xác định trong mối liên hệ với
các văn bản chẳng hạn như Aṣṭasāhasrikā prajñāpāramitā sūtra Bộ kinh Bát thiên
tụng Bát nhã. Khi chúng ta so sánh bản Phạn ngữ với hai bản dịch tiếng Trung Quốc
thì có thể thấy rằng thuật ngữ tathatā 眞如 chân như được dịch là 本無 Bản vô (Tokiwa 1938: 173). Trong cả hai bộ 道行般若經 Đạo hành Bát nhã kinh
do Lokaṣema支婁迦讖 Chi
Lâu Ca Sấm dịch, và 大明度經 Đại
Minh độ kinh do支謙 Chí
Khiêm dịch thì tathatā 眞如 chân
như đều được dịch là 本無 bản
vô, và chương 14 trong cả hai bản đều dịch thuật ngữ tiếng Phạn
tathatāparivarta là 本無 bản vô
(道行般若經 Đạo
hành Bát nhã kinh: T.8.449c-500a; 大明度經 Đại Minh độ kinh: T.8.491c). Vậy thì tại sao trong cả hai bộ
kinh, thuật ngữ 本無 bản vô
lại được sử dụng để dịch tathatā? Trước hết người Trung Quốc diễn dịch tathatā
là 本無 bản vô
vì chịu ảnh hưởng của tư tưởng 格義佛敎 Cách
nghĩa Phật giáo rất thịnh hành trong thời gian đó. 格義佛敎 Cách nghĩa Phật giáo dựa
trên tư tưởng cho rằng hai vật khác nhau, về cơ bản đều có thể có những tính
tương đồng (Kimura 1976: 630). Nhưng cái gì là ý tưởng cụ thể dẫn đến diễn dịch
tathatā là 本無 bản
vô? Tiến sỹ Tsukamoto cho rằng Kumārjīva 鳩摩羅什 Cưu Ma La Thập trong thời 後秦 Hậu Tần trong bản dịch Prajñā sutras 般若經: Bát Nhã kinh đã dịch
tathatā là 大如 Đại
Như, trong khi 施護 Thi Hộ
đời 北宋 Bắc Tống
lại dịch là 眞如 Chân
như; khác cách dịch trên, Chi Lâu Ca Sấm đời Hậu Hán và Chí Khiêm đời Ngô dịch
là 本無 bản
vô. Tiến sỹ Tsukamoto (1955: 115) cũng chỉ ra rằng hai bản dịch của các học giả
Phật giáo sau này có lẽ đã chịu ảnh hưởng đoạn sau của Lão Tử: 无,名天地之始;有,名万物之母. Vô [無], danh thiên địa chi thuỷ; hữu,
danh vạn vật chi mẫu. Dịch nghĩa: “Không” là tên của Cội Nguồn trời đất; “Có” [有] là tên của Mẹ vạn vật. 道德经第一章, 原文版Đạo Đức
kinh, Đệ nhất chương, Nguyên văn bản [ND*].Tathatā của Kinh Bát nhã giới thiệu
mở đầu về Śūnyatā có nghĩa là “Chân tính chính là Śūnyatā ” Không tính. Vì vậy
người ta cho rằng người Trung Quốc nào dịch tathatā là 本無 bản vô thì về thực chất có ý định
dùng 無 vô để ngụ ý phủ định
chân tính của hiện tượng (Fukunaga and Matsumura 1983: 258). Chính vì vậy mà
khi dịch kinh bổn, các học giả đã chọn thuật ngữ “bản vô” vì người Trung Quốc
có lẽ đã không hiểu được nghĩa của thuật ngữ tiếng Phạn tathatā, trong khi đó
nó đã được dịch là 如 như
tính, hợp với nghĩa gốc của thuật ngữ tiếng Phạn. Thuật ngữ 本無 bản vô cũng bắt gặp trong một
bình giải, 老子注 Lão Tử
chú của 王弼 Vương
Bật (Mori 1982: 872). Chỉ có trong 佛說無量壽經: Phật
thuyết Vô lượng thọ Kinh, được viết tắt là 無量壽經Vô lượng thọ Kinh do 康僧鎧 Khang Tăng Khải dịch thì lần đầu tiên mới thấy thuật ngữ 如 như tính.2 Trong 放光般若經 Phóng quang Bát nhã
kinh thì tathatā được dịch là 如 như
tính hoặc 如如 như
như, thậm chí 如 như
tính còn được dùng làm đầu đề của một chương trong bộ kinh (T.8.15b; 89c;
112b). Trong lời giới thiệu 道行般若經 Đạo
hành Bát nhã kinh, 道安 Đạo An
đã dịch tathatā là chân như, mặc dù nó đã được dịch là bản vô trong bộ kinh
(T.55.47a). Đạo An hiểu rằng bản vô thực ra là chủ đề của bộ kinh về “Chân
như”. Thuật ngữ “Chân như” trong tiếng Trung Quốc về phương diện ngữ pháp chỉ
là một phó từ. Trong cách hiểu về tathatā của Đạo An thì bản vô đồng nhất với
như tính3 là chủ đề chính của bộ 放光般若經 Phóng quang Bát nhã Kinh. Như đã đề cập ở trên, quá trình hiểu
về nguồn gốc Phật giáo của người Trung Quốc là dựa trên các diễn giải kinh điển
Ấn Độ thông qua lăng kính tư tưởng Trung Quốc. Không phải cho đến cuối đời Hậu
Hán thì Kinh Bát nhã mới thực sự được dịch lần đầu tiên. Nhưng khi tư tưởng Bát
nhã đang thịnh hành ở Trung Quốc, sau giai đoạn Đông Tấn thì có sự trùng hợp với
sự phát triển của Huyền học và sự phổ biến của 淸談 Thanh đàm.
III. Môi trường Xã hội
và Tiếp nhận Tư tưởng Bát Nhã
1. Sự thịnh hành của tư
tưởng Tân Lão tử
Trong khoảng 400 năm dưới triều
đại nhà Hán, Khổng giáo đã giữ vai trò thống trị trên vũ đài chính trị và văn
hoá tại Trung Quốc, và được coi là lý tưởng, trong đó xã hội và con người đều ổn
định và được giáo dưỡng thông qua tác động của Khổng giáo và tư tưởng Khổng giáo.
Nguyên do Phật giáo có thể đặt chân được vào ngưỡng cửa Trung Quốc trong giai
đoạn sớm của Hán Triều chính là trong giai đoạn này trạng thái hoạt động ngầm
trong vòng 200 năm giới trí thức có thiên hướng chính trị và không quan tâm nhiều
đến tôn giáo.
Đến thời 六朝 Lục Triều, sau nhà Hậu Hán,
trí thức Trung Quốc bắt đầu thể hiện mối quan tâm đến các tư tưởng văn hoá chẳng
hạn như triết học, nghệ thuật, văn học và tôn giáo. Một lĩnh vực thu hút sự
quan tâm đặc biệt đối với các trí thức, đó chính là tư tưởng Tân Lão tử được
phát triển thành biểu tượng với nhóm 竹林七賢 “Trúc lâm Thất hiền”. Họ dấn thân vào con đường “Thanh đàm” hoặc
thảo luận thuần tuý bằng lối tư biện về thực chất của cuộc sống và về các vấn đề
cá nhân và xã hội. Mặc dù hời hợt nhưng từ Thanh đàm lại có nghĩa là “thuần khiết
tranh luận, không bị làm vẩn đục bằng các trần cấu cuộc đời”, tư tưởng Lão
Trangcũng được thể hiện trong quan niệm về “Thanh đàm”. Vì vậy đây là loại
không khí mà các trí thức cố gắng hiểu tư tưởng Bát Nhã và Śūnyatā Không tính từ
quan điểm “bản vô”.
Để khảo sát những tương đồng và
khác biệt giữa hai thuật ngữ Śūnyatā Không tính và bản vô, chúng tôi sẽ bắt đầu
bằng việc xem xét nghĩa của “bản vô”, là cái cần phải lưu ý, vì đó là một thuật
ngữ có tầm quan trọng lớn nhất trong tư tưởng Lão Trang. 道 “Đạo” là thuật ngữ quyết định
nhất trong tư tưởng Lão tử được xác nhận bởi một thực tế là người sáng lập học
phái Đạo giáo, cũng được biết với tên gọi “Đạo” (Ito 1988: 25). Trong nhiều thế
kỷ, thuật ngữ Đạo đã có một ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng Trung Quốc. Trong tư
tưởng Lão Tử, Đạo có nghĩa là “vô” như trong lời tuyên của ông 道可道,非常道 Đạo khả đạo, phi thường
đạo. Dịch nghĩa: Cái đạo mà nói ra được thì không còn là đạo thường 道德经第一章, 原文版Đạo Đức
kinh, Đệ nhất chương, Nguyên văn bản. Theo Lão tử thì thuật ngữ Đạo không phải
là một đối tượng cụ thể, là cái chúng ta không thể thấy hoặc chạm vào được, đó
chính là lý do tại sao
Đạo lại là “Vô”. Nhưng ở đây, thuật ngữ Vô trong cách
dùng của Lão tử lại không được dùng như một thuật ngữ mang tính kỹ thuật, vì nó
được hiểu theo nghĩa ngữ pháp là một từ loại nguyên thể. Việc sử dụng theo
nghĩa khái niệm của thuật ngữ “Vô” xuất hiện trong Đạo Đức kinh của Lão tử như
sau: 天下萬物生于有, 有生于“無” Thiên hạ vạn vật sinh vu hữu,
hữu sinh vu“ vô”4. Dịch nghĩa: Trời đất vạn vật sinh ra từ “hữu”; mà “hữu” thì
lại sinh ra từ “vô”. [道德经第四十章, 原文版Đạo Đức kinh, Đệ tứ thập
chương, Nguyên văn bản]. Và phần luận về cái lợi của hữu và cái dụng của vô: 故有之以爲利, 無之以爲用 Cố hữu chi dĩ vi lợi,
vô chi dĩ vi dụng.5 Dịch nghĩa: Vậy mới lấy cái “hữu” để làm lợi, lấy cái “vô”
làm dụng [道德经第十一章, 原文版Đạo Đức kinh, Đệ thập nhất
chương, Nguyên văn bản]. Ở đây “vô” có nghĩa là cội nguồn sản sinh ra vạn vật.
Nó cũng có nghĩa là khả tính sản sinh ra vạn vật. Vì vậy nếu “vô” có thể được định
nghĩa là tính bất định, thì “vô” chính là bản thân “Đạo” vậy. Định nghĩa sau
xác định rõ chức năng thực sự của “vô” như trong ví dụ về chiếc bát hoặc chiếc
cốc có một không gian trống để tạo thành chức năng sử dụng của nó; hoặc có thể
lấy ví dụ về một căn phòng là nơi có không gian trống tiềm tàng để ở. Vì vậy
khi nói về phương diện chức năng thì “vô” chính là cái có lợi cho con người. Đạo
giải thích về điều đó như sau: 道生一, 一生二. 二生三, 三生萬物 Đạo sinh nhất, nhất
sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Dịch nghĩa: Đạo sinh ra một, một sinh
ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh vạn vật (Laozi: Chương 42)6. Ở đây rõ ràng là
toàn bộ các hiện tượng đều có nguồn gốc từ Đạo. Vì vậy, “vô” theo tư tưởng của
Lão tử có thực tính bản chất luận và lý thuyết phát sinh (Hachiya 1982: 648).
Nó được đề cập đến ở đây theo nghĩa cái “vô” của Lão tử không phải là “vô” theo
nghĩa tuyệt đối luận, mà đúng hơn, đó là cái “vô” với tư cách là mặt phủ định của
tồn tại.
Lão tử kiên trì rằng chúng ta
phải quay trở lại với trạng thái gốc, là cội nguồn của mọi sự vật, hiện tượng,
trong khi 莊子 Trang
tử lại xác quyết rằng Đạo xuất hiện từ trạng thái tự do thoát khỏi những trần cấu
của thế giới thực. Hơn nữa cho dù Trang tử là một người kế tục Lão tử về phương
diện triết học thì ông lại hướng sự quan tâm của mình đến đối tượng tự nội, mặc
dù trong tư tưởng vô vi, Lão tử đã suy xét Đạo từ viễn cảnh của đối tượng bên
ngoài. Ở đây chúng ta phát hiện ra một tương đồng giữa tư tưởng của Trang tử và
Phật giáo là tại sao các tư tưởng của Trang tử lại có thể tạo ra một nhịp cầu
cho sự phát triển của Phật giáo ở Trung Quốc. Vì vậy không có gì đáng ngạc
nhiên là tư tưởng Đạo giáo về “Vô” lại có ảnh hưởng lớn đến việc chấp nhận Phật
giáo tại Trung Quốc trong thời gian đó. Và điều đó đã tự nhiên dẫn tới việc
truy vấn về vai trò triết học của “Vô” trong việc chấp nhận tư tưởng Śūnyatā
Không tính.
2. Śūnyatā trong tư tưởng
Bát nhã Prajñā
Śūnyatā Không tính được giải
thích ý nghĩa một cách vắn tắt là toàn bộ các hiện tượng đều có nguồn gốc duyên
khởi, tuỳ thuộc, và vì vậy không có tính bản chất và phi tồn tại. Nhưng trong
thực tính tương đối của “duyên khởi” thì mọi hiện tượng đều thực sự tồn tại,
đơn giản như thực chất hiện tượng của chúng – như cái mà chúng là. Tư tưởng triết
học của “Vô” có cội nguồn sâu xa trong tư duy Trung Quốc từ thời Lão tử và
Trang tử, được coi là tư tưởng đại diện tiêu biểu cho bản tính Trung Quốc, có
tính kinh nghiệm và trực giác. Để so sánh các tư tưởng Śūnyatā Không tính Ấn Độ
và “Vô” Trung Quốc, chúng ta cần phải xem xét các khía cạnh có ý nghĩa nhất và
cơ bản nhất của hai truyền thống triết học (Hachiya 1982: 645). Người ta cho rằng
bộ kinh Mahāyāna sūtra Đại thừa kinh đầu tiên được giới thiệu vào Trung Quốc
chính là Kinh Bát nhã, và cách thức giới thiệu và phổ biến bộ kinh này trên khắp
Trung Quốc chính là chiếc chìa khoá để hiểu biết tốt hơn về lịch sử Phật giáo
Trung Quốc.
Trong phần thứ hai, việc dịch bộ
kinh Bát nhã, chúng ta thấy rằng các thuật ngữ “Chân như” và Śūnyatā Không tính
được Chi Lâu Ca Sấm và Chí Khiêm, là những người đã dịch bộ kinh thông qua cách
diễn giải của họ về thuật ngữ Đạo giáo “Bản vô”. Cách tiếp cận này, nhờ nó mà
Phật giáo được hiểu thông qua các khái niệm và các thuật ngữ đặc biệt đối với
các hệ thống tư duy khác được gọi là “cách nghĩa” và Phật giáo hưng thịnh trong
thời gian đó được biết là “Cách nghĩa Phật giáo” (Tang 1991: 235). Thuật ngữ
“Cách nghĩa” xuất hiện lần đầu tiên trong 竺法雅傳 Trúc pháp Nhã truyền: T.50.347a của 高僧傳 Cao Tăng Truyện. Phong
trào Cách nghĩa Phật giáo bắt đầu trong giai đoạn Đông Tấn, nhưng cần phải hiểu
rằng việc nỗ lực để hiểu Phật giáo theo cách thức của một hệ thống tư tưởng
khác thường đã có từ lâu trước thời Đông Tấn. Chẳng hạn chúng ta có thể thấy những
ví dụ như vậy trong các thuật ngữ như Nirvāṇa 涅槃 Niết bàn đã được dịch là 無為 Vô vi, hoặc tathatā được dịch là Bản vô, còn Arahat 阿羅漢 A la hán được dịch là 眞人 Chân nhân. Không có gì đáng ngạc
nhiên là tư tưởng Lão Trang ngay từ đầu đã có một ảnh hưởng mạnh đến việc hiểu
kinh điển Phật giáo của người Trung Quốc như chúng ta đã thấy các khái niệm chủ
chốt trong các bản dịch gốc đều được lấy trực tiếp từ vốn thuật ngữ của Lão
Trang. 竺法雅 Trúc
Pháp Nhã là một nhân vật hàng đầu trong phong trào Cách nghĩa Phật giáo trong
giai đoạn này, là người có học vấn uyên bác về học thuyết Phật giáo cũng như
văn học Trung Quốc và trong số các học trò của ông có các con cái của đám quan
lại và trí thức. Vì họ không quen thuộc với triết học Phật giáo nên Trúc Pháp
Nhã và 康法朗 Khang
Pháp Lãng của phái Trung Sơn đã dạy họ bằng cách thức mà các phạm trù khái niệm
Phật giáo làm cho họ hiểu đã bị biến đổi thành một tên gọi khác là事數 Sự sổ (Chang 1996: 119-137).
Trong khi Khang Pháp Lãng được
xem là nhân vật tiên phong thì Đạo An lại được coi là nhân vật chính trong Phật
giáo Trung Quốc. Trúc Pháp Nhã học Phật dưới sự hướng dẫn của 佛圖澄 Phật Đồ Trừng (232-348
AD*) và sau này ông đã viết một số sách và thuyết giảng về đạo Phật. Nhưng ông
cũng kiên trì rằng việc diễn giải Phật giáo thông qua tư tưởng Trung Quốc không
phải là một phương pháp thích hợp và lối hiểu của Cách nghĩa Phật giáo cần phải
được từ bỏ để thấm nhập vào chân Phật giáo. Trúc Pháp Nhã cũng tin rằng việc diễn
giải Phật giáo thông qua Cách nghĩa luôn luôn không đầy đủ vì nó tiềm ẩn khả
năng xuyên tạc nghĩa gốc của kinh điển Phật giáo. Trên cơ sở quan điểm này ông
đã phê phán Cách nghĩa khi kiên định rằng các kinh điển Phật giáo chỉ cần được
dịch thông qua quan điểm của chính Phật giáo, với tư cách là cơ sở đã được xác
lập của Phật giáo Trung Quốc. Tuy nhiên ông không có ý định chia tách các mối
quan hệ với tư tưởng truyền thống Trung Quốc và thậm chí ông còn sử dụng các
thuật ngữ Đạo giáo trong các nghiên cứu và trong các bình chú kinh Phật; về
phương diện này, bản thân ông cũng đồng loã với Cách nghĩa Phật giáo (Tsukamoto
1968: 297). Như đã đề cập ở trên, Cách nghĩa quy về tư tưởng Phật giáo Ấn Độ được
diễn giải thông qua tư tưởng Trung Quốc, vì vậy Phật giáo sớm tại Trung Quốc là
Cách nghĩa Phật giáo, và toàn bộ ba học phái đều đưa ra các ví dụ tiêu biểu về
vấn đề này trong các diễn giải của họ. Về phương diện này, bất cứ phê phán nào
về Cách nghĩa Phật giáo cũng đều được hiểu là một nỗ lực để hiểu về toàn bộ ý
nghĩa của Phật giáo từ một viễn cảnh học thuật.
3. Gia tăng Nghiên cứu
kinh Bát Nhã
Trong giai đoạn 魏晉 Nguỵ Tấn, khi tư tưởng Lão
Trang đang hồi thịnh hành thì phong trào nghiên cứu về bộ kinh Bát Nhã cũng nở
rộ cùng với khí hậu thịnh hành của tư tưởng trong giai đoạn đó, mặc dù việc
nghiên cứu Pañcaviṃśati sāhasrikā prajñāpāramitā 大品般若Đại phẩm Tức kinhĐại phẩm Bát nhã và bản thân bộ kinh này cũng
chưa trở nên phổ biến nên người ta đặc biệt quan tâm đến một số phần của bộ
kinh Bát Nhã. Đạo hành Bát nhã kinh là phần đầu tiên được Chi Lâu Ca Sấm dịch
cùng với Đại Minh độ kinh do Chí Khiêm dịch; sau này 光讚經 Quang Tán kinh, một
phiên bản của Đại phẩm Tức kinhĐại phẩm Bát nhã cũng được dịch, nhưng công việc
nghiên cứu bộ kinh không được thịnh hành. Tuy nhiên việc nghiên cứu phiên bản
Phóng quang Bát nhã kinh không hưng thịnh, và phiên bản này do 朱士行 Chu Sĩ Hành gửi từ
Khotan về.
Trong trường hợp này, tôi muốn liếc
qua nhiệt tâm của Đại sư Đạo An đối với bộ kinh Bát Nhã. Vào giai đoạn cuối cuộc
đời Đại sư Đạo An vịêc nghiên cứu kinh Bát Nhã đạt đến đỉnh điểm. Nhưng trong
thời gian đó, cách tiếp cận bộ kinh vẫn thông qua viễn kiến của tư tưởng Lão
Trang như đã đề cập ở trên. Điều đó có nghĩa là kinh điển tiếng Trung Quốc được
dịch từ các kinh văn Phật giáo Ấn Độ đã phổ biến trong giới trí thức với tư
cách là tư tưởng Trung Quốc hơn là các kinh văn phản ánh quan điểm Phật giáo Ấn
Độ. Nhưng vì Đại sư Đạo An không đồng ý với cách nghiên cứu bộ kinh Bát nhã như
vậy nên ông đã cố gắng hiểu Śūnyatā Không tính thông qua việc nghiên cứu so
sánh các phiên bản khác nhau của bộ Bát nhã. Các nỗ lực của ông đã đơm hoa kết
trái trong môn đồ Tăng Triệu (384-414 AD), Tăng Triệu cũng vốn là môn đệ của 鳩摩羅什 Cưu Ma La Thập. Vì vậy,
lần đầu tiên Śūnyatā Không tính trong tư tưởng Bát nhã đã được dịch, truyền đạt
và hiểu chính xác trong Phật giáo Trung Quốc.
IV. Các quan điểm về
Śūnyatā Không tính trong Bát nhã kinh
Cách hiểu về tư tưởng Bát nhã
trong bối cảnh lịch sử giai đoạn sớm là gì? Diễn giải của ba học phái đều cho rằng
“cái tâm Śūnyatā Không tính chính là Vô”, trong đó “Śūnyatā có cơ sở vật chất”
và “Śūnyatā là bản vô”. Tư tưởng này sau đó đã bị Tăng Triệu bác bỏ trong trứ
tác “Bàn về不眞空論 Bất
chân không luận” của ông; Tăng Triệu không gọi tên ba học phái nhưng ông phê
phán các lập luận của họ. Đó chính là lý do tại sao mà ngày nay chúng ta nghiên
cứu ba học phái và các lập luận của họ thông qua các văn liệu muộn hơn này
(Ancho: T.65.93a). Các học giả đầu tiên kiên định lập trường về “cái tâm
Śūnyatā Không tính chính là Vô” đã được đề cập là 支愍度 Chi Mẫn
Độ và 竺法溫 Trúc
Pháp Ôn.7
Quan điểm về “cái tâm Śūnyatā
Không tính chính là Vô” kiên trì rằng bản thân trí tuệ giác ngộ chính là Hư vô
hoặc là Vô, nhờ đó mà chúng ta có thể hiểu được toàn bộ các hiện tượng. Điều đó
dựa trên tư tưởng của Trang tử nói về “một kẻ đã đạt tới trạng thái cao nhất của
tâm, gọi là 至人 Chí nhân”. Đoạn dưới đây trích từ 肇論 Triệu
Luận của Tăng Triệu:
“Tâm là vô” suy ra rằng chúng
ta không bị vạn vật trói buộc vì vạn vật không phải là vô. Cái lợi của thị kiến
này là ở chỗ nó làm ta an tâm, nhưng cái bất lợi là ở chỗ nó có thể dẫn tới kết
cục là vạn vật đều là không (T.45.152a)”.
Tăng Triệu chỉ trích quan điểm
này vì nó không nhận thức thấu đáo tính phi bản chất của mọi hiện tượng. Nói
cách khác, quan điểm về cái tâm không bị trói buộc là cái lý tưởng là đúng,
nhưng nó lại không khảo sát được thực tính của các hiện tượng (Ocho 1960). Một
quan điểm khác bị Tăng Triệu bác bỏ là “Śūnyatā Không tính là bản chất”
(T.45.152a). Điều đó hàm ý rằng Śūnyatā có thể là bản chất vì nó không có tính
bản chất tự thân, nói cách khác, Śūnyatā Không tính không có nghĩa “không liên
quan gì đến vật chất” mà có liên quan, hoặc Śūnyatā Không tính thuộc về tính
phi bản chất. Theo nghĩa này, quan điểm mới là một diễn giải đúng đắn hơn về
Śūnyatā Không tính so với quan điểm trước đó, coi “tâm là Vô”.
Tuy nhiên mặc dù vị thế của hai
học phái ủng hộ cho quan điểm “Śūnyatā Không tính là bản chất” thì 吉藏 Cát
Tàng lại giải thích rằng Tăng Triệu đã chỉ rõ quan điểm Trung Quốc về “Śūnyatā
Không tính là bản chất” và quan điểm của 支愍度 Chi Mẫn Độ cũng tương tự
như quan điểm “Śūnyatā Không tính” (T.42.29a). Định nghĩa sớm nhất về bản vô
cũng xuất hiện trong不眞空論 Bất chân không luận của Tăng Triệu như sau: Những người đảo ngược
quan điểm “Bản vô” thì luôn luôn quy về “Vô”. Nhưng nếu ta phủ nhận “Hữu” thì
nó trở thành “Vô” và nếu ta phủ nhận “Vô” thì nó (Kamata 1983: 170) trở thành tự
thân (T.45.152a). Tăng Triệu phủ nhận hai khái niệm, “Hữu” và “Vô” và làm cho từ
“Vô” vượt khỏi cả hai khái niệm đó (Fukunaga and Matsumura 1983: 280). Sau đó
ông phê phán quan điểm “Bản vô” vì 非無 Phi vô không phải là chân “Hữu”
và nó cũng không phải là chân “Vô”. Ông khuyên rằng các quan điểm này là cách
hiểu không chính xác về 非有 “Phi hữu” và 非無 “Phi vô”. Vì vậy có thể nói rằng “Phi hữu” không phải là “Chân
hữu” và “Phi vô” không phải là “Chân vô”.
V. Kết luận
Trong bài viết này, chúng tôi
đã xem xét việc hiểu và tiếp nhận tư tưởng Bát nhã vào Phật giáo sớm tại Trung
Quốc. Sau khi du nhập Phật giáo vào Trung Quốc, chính giới trí thức đã bắt đầu
sốt sắng chấp nhận Phật giáo trong thời 晉 Tấn, nhưng hoàn cảnh chính trị
xã hội trong thời gian đó rất không ổn định vì các triều đại người Bắc địch đã
hất cẳng người Trung Quốc ra khỏi vùng Trung Nguyên. Việc tiếp nhận Phật giáo
trong giai đoạn đó gắn liền với sự bất ổn xã hội ấy vì trong sự thức tỉnh của một
xã hội bất ổn thì tư tưởng Śūnyatā Không tính được coi là một đồng minh làm cho
mọi người cảm thấy bình an. Vì vậy lĩnh vực có ý nghĩa to lớn trong công việc
nghiên cứu đối với các học giả Phật giáo Trung Quốc trong thời gian đó chính là
việc hiểu được tư tưởng Śūnyatā Không tính. Không có gì đáng ngạc nhiên là khi
họ dịch các kinh điển Phật giáo có cấu trúc ngôn ngữ khác với tiếng Phạn thì họ
đã nỗ lực diễn giải các kinh văn thông qua tri thức và việc hiểu khái niệm sẵn
có của mình. Một ví dụ điển hình của việc diễn giải Śūnyatā Không tính của ba học
phái là như sau:
Trước hết, về mặt quan điểm thì
“tâm là vô” thì Śūnyatā được diễn giải là chức năng của chủ thể hiểu trong khi
cái hữu của các hiện tượng lại không bị phủ nhận. Thứ hai, trong quan điểm
“Śūnyatā có cơ sở ở vật chất” thì Śūnyatā được coi là “Phi bản chất”; quan điểm
này là cách diễn giải hữu thể luận về các hiện tượng. Thứ ba, quan điểm
“Śūnyatā là bản vô” cố gắng phủ định các khái niệm tương đối về hữu và vô,
nhưng lại không siêu vượt các giới hạn của Vô. Trong nhiều diễn giải khác nhau
về Śūnyatā thì phê phán của Tăng Triệu được coi là độc đáo nhất và ông được coi
là một người hiểu chính xác Śūnyatā Không tính trong tư tưởng Bát nhã. Tuy
nhiên, Tăng Triệu chỉ thuần tuý là ví dụ cho “Ba loại diễn giải” để giải thích
quan điểm về Śūnyatā trong “Bàn về 不眞空論 Bất chân không luận” của
ông. Điều đó dẫn đến nhu cầu nghiên cứu thêm trong tương lai để đánh giá tính
chất triệt để trong khảo sát của Tăng Triệu liên quan đến các lý thuyết tiên
thiên về tư tưởng Bát nhã.
__________________________
Ghi chú:
AD*: Anno Domini Sau Thiên chúa
ND*: Người dịch chú
Tác giả: Hoà thượng
Chang, Ae-soon 張愛順Trương Ái Thuận là Giáo sư Phật học tại Đại học Dongguk
University, Hàn Quốc.
Nguồn: International Journal of
Buddhist Thought & Culture February 2008, Vol.10, pp.41-57. The International
Association for Buddhist Thought and Culture.
Từ vựng Thuật ngữ tiếng
Trung
(K=Korean, C=Chinese,
S=Sanskrit)
Aṣṭaāhasrikā prajñāpāramitā
sūtra (S) 小品般若經 Bát thiên tụng Bát Nhã kinh
Damingdujing (C) 大明度經 Đại
minh độ kinh
Daoan (C) 道安 Đạo An
Daohanbanruojing (C) 道行般若經 Đạo
hành Bát nhã kinh
Fangguangbanruojing (C) 放光般若經 Phóng
quang Bát nhã kinh
Fotucheng (C) 佛圖澄 Phật đồ
trừng
Foshuowuliangshoujing (C) 佛說無量壽經 Phật
thuyết vô lượng thọ kinh
Gaosengchuan (C) 高僧傳 Cao
tăng truyện
Geyifojiao (C) 格義佛敎 Cách
nghĩa Phật giáo
Guangzanbanruojing (C) 光讚般若經 Quang
tán Bát nhã kinh
Jizang (C) 吉藏 Cát
Tàng
Kang Falang (C) 康法朗 Khang
Pháp Lãng
Kang Sengkai (C) 康僧鎧 Khang
Tăng Khải
Kumārajīva (S), Jiumoluoshen
(C) 鳩摩羅什 Cưu Ma
La Thập
Laozi (C) 老子 Lão tử
Laozizhu (C) 老子注 Lão tử
chú
Lokaṣema (S), Zhiloujiachan (C)
支婁迦讖 Chi
Lâu Ca Sấm
Mahāyāna sūtra (S) 大乘經典 Đại thừa
Kinh điển
Nirvāṇa (S) 涅槃 Niết
bàn
Pañcaviṃśati sāhasrikā
prajñāpāramitā sūtra (S) 大品般若經 Đại phẩm Bát nhã kinh
Prajñā Sūtra (S), Banruojing
(C) 般若經 Bát
nhã Kinh
Prajñā Thought (S) 般若思想 Bát
nhã Tư tưởng
Qin (C) 秦 Tần
Qingtan (C) 淸談 Thanh
đàm
Sengzhao (C) 僧肇 Tăng
Triệu
Shihu (C) 施護Thi Hộ
Shishu (C) 事數 Sự Sổ
Śūnyatā (S) 空性 Không
tính
Tao (C) 道 Đạo
Tathatā (S) 眞如 Chân
như
Tathatāparivarta (S) 本無品 Bản vô
phẩm
Wang Bi (C) 王弼 Vương
Bật
Xuanxue (C) 玄學 Huyền
học
Zhaolun (C) 肇論 Triệu
Luận
Zhi Mindu (C) 支愍度 Chi Mẫn
Độ
Zhiqian (C) 支謙 Chí
Khiêm
Zhongshan (C) 中山 Trung
Sơn
Zhufawen (C) 竺法溫 Trúc
Pháp ôn
Zhufahu (C) 竺法護 Trúc
Pháp hộ
Zhufaya (C) 竺法雅 Trúc
Pháp nhã
Zhu Shixing (C) 朱士行 Chu Sĩ
Hành
Zhuangzi (C) 莊子 Trang
Tử
Zhufayachuan (C) 竺法雅傳Trúc
Pháp nhã truyền
Abbreviation
T Taisho shinshu daizokyo
(大正新修大藏經Đại
chánh tân tu đại tàng kinh: Japanese Edition of the Buddhist Canon), Ed. by
Takakasu, Junjiro, et al (高楠順次郞Cao nam thuận thứ lang). Tokyo: Taisho
Issaikyo Kankokai, 1924-1935.
Fangguangbanruojing (放光般若經 Phóng
quang Bát nhã kinh), Chinese trans. by Wuluocha (無羅叉Vô la
xoa). T.8, no.221.
Daohangbanruojing (道行般若經 Đạo
hành Bát nhã kinh), Chinese trans. by Lokaṣema (支婁迦讖Chi lâu
ca sấm). T.8, no.224.
Damingdujing (大明度經 Đại
minh độ kinh), Chinese trans. by Zhiqian (支謙 Chí Khiêm). T.8, no.225.
Foshuowuliangshoujing (佛說無量壽經 Phật
thuyết vô lượng thọ kinh), Chinese trans. by Kang Sengkai (康僧鎧 Khang
Tăng Khải). T.12, no.360.
Guangzanjing (光讚經 Quang
tán kinh), Chinese trans. by Zhufahu (竺法護 Trúc Pháp hộ). T.8,
no.222.
Ancho安澄An Trừng
Chūron shoki (中論疏記Trung luận sơ kí), T.65, no.2255.
Chang, Ae-soon張愛順Trương
Ái Thuận 1996. The Annual of the Buddhist Studies. Seoul: Institutefor Buddhist
Cultural Studies at Dongguk University.
Fukunaga,Mitsuji, and福永光司Phúc
Vĩnh Quang Ti Matsumura,Takumi松村巧Tùng Thôn Xảo 1983. The Lectures On the Mahāyāna Buddhism
2―ThePrajñā Thought. Tokyo: Shunshuwu Publisher.
Hachiya, Kunio蜂屋邦夫Phong Ốc
Bang Phu 1982. The Śūnya―The Buddhist Thought. Tokyo: HeirakujiPublisher.
Ito, Takatoshi伊藤隆寿Y Đằng
Long Thọ 1988. The Study and Training in Private Institute. Tokyo.
Jizang 吉藏 Cát
Tàng Zhongguanlunshu (中觀論疏Trung Quán luận sớ), T.42, no.1824.
Tài liệu tham khảo
Kaginushi, Ryokei 鍵主良敬Kiện Chủ
Lương Kính 1968. The Introduction of the Avataṃsaka Doctrine. Tokyo: Buneido
Publisher.
Kamata, Shigeo 鎌田, 茂雄Liêm Điền
Mậu Hùng 1983. The History of Chinese Buddhism 2. Tokyo: TokyoUniversity Press.
Kimura, Kiyotaka木村淸孝Mộc
Thôn,Thanh Hiếu 1976. The Collection of Articles of Buddhist Thought.Tokyo: The
Association for publishing the memorialarticles in honour of the 77th birthday
of Dr. Ouda.
Laozi老子Lão tử
1989. Laoziquanyi, Trans. by Shashaohai and Xuzihong.Quiyang: Quizhouren-min
Publisher.
Mori, Mikisaburo森三樹三郎Sâm Tam
Thụ Tam Lang 1982. The Buddhist Thought 7. Tokyo: Heirakuji Publisher.
Ocho, Enichi 横超慧日Hoành
Siêu Tuệ Nhật 1960. The Collection of Articles of the Oriental Thought.Tokyo:
The Association for publishing the memorialarticles in honour of the longevity
of Dr. Hukui.
Sengzhao僧肇 Tăng
Triệu
Zhaolun 肇論 Triệu
Luận, T.45, no.1858.
Tang, Yongtong 湯用彤 Thang
Dụng Đồng 1991. The Buddhist History of Han, Wei, the Western andEastern Jins,
and the Northern and SouthernDynasties. Shanghai, Shanghai Book Store.
Tokiwa, Daizo 常盤大定Thường
Đàn Đại Định 1938. A Study of Chinese Buddhism. Tokyo: Shunshuwu Publisher.
Tsukamoto, Zenryu 塚本善隆Trủng Bản
Thiện Long 1955. The Study of the Zhaolun. Tokyo: HojyoukanPublisher.
1968 The Comprehensive History
of Chinese Buddhism.Tokyo: Suzuki Research.
Wright, Arthur F.1980. Buddhism
in the Chinese History, Japanese trans. By Ryuichi Kimura and Toshitaka
Kobayashi. Tokyo: Daisangbunmei Publisher.
Chú thích
1 Ngôn ngữ Trung Quốc là loại
ngôn ngữ ngữ nghĩa và từ loại trong tiếng Trung Quốc không biến đổi, nói tóm lại,
đó là một loại ngôn ngữ đơn âm tiết. Trong khi đó ngôn ngữ Ấn Độ được đặc trưng
bởi những biến đổi thường xuyên của nó trong từ loại và là một ngôn ngữ đa âm
tiết. Hơn nữa ngữ pháp Trung Quốc trong giai đoạn sớm không có tính hệ thống,
nhưng Phạn ngữ Ấn Độ thì lại là một hệ thống hoàn thiện về ngữ pháp (Wright
1980: 44).
2 從如來生解法如如 Tòng
như lai sinh giải pháp như như (T.12.274a).
3 For details, see Kaginushi
(1968: 29-36).
4 天下萬物生于有, 有生于“無” Thiên
hạ vạn vật sinh vu hữu, hữu sinh vu“ vô” (Laozi: Chapter 40).
5 有之以爲利, “無”之以爲用Hữu chi
dĩ vi lợi, “vô” chi dĩ vi dụng (Laozi: Chapter 20).
6 道生一, 一生二. 二生三, 三生萬物 Đạo
sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật (Laozi: Chương 42).
7 Người ta cho rằng Chi Mẫn Độ
là người đầu tiên thể hiện nghĩa của ngữ đoạn “tâm là bản vô” (Kamata 1983:
170).
==========================================