Thiền định không là toàn hảo.
Thiền định không là toàn hảo. Bây giờ các chuyên gia
phân tâm học đã biết rằng toàn hảo hóa là một bịnh thần kinh. Thiền là
tôn giáo duy nhất không phải là bịnh thần kinh. Thiền chấp nhận (tolerate). Sự
chấp nhận của thiền là chấp nhận toàn thể, toàn thể cực độ, đến độ không gọi kẻ giết người là kẻ giết
người, kẻ trộm cắp là đồ trộm cắp. Cái mà thiền
nhìn
thấy chỉ là Phật tính hoàn
toàn tự
nhiên trong con người. Thiền thấy một cực kỳ
chuyển hoá.
Thiền định là một tôn giáo độc nhất không có kinh sách ấn bản, không có quy định nào
được ghi chép và vân vân. Điều này làm cho thiền có giá trị vô
điều kiện.......... một khi lập ra điều kiện, ta đã bỏ đi mất điểm
chính yếu. Thiền không có sợ hãi và không có tham vọng. Thiền không có Thượng
Đế và Ma Quỉ, và Thiền cũng
không có thiên đường hay địa ngục. Thiền không làm cho người ta
tham lam bằng cách dụ dỗ, hứa hẹn cho hồng phúc lên thiên đường, thế giới tây
phương cực lạc hay lầu son gác tiá. Và thiền không
làm cho ai hoảng hốt sợ hãi bằng cách tạo ra ý niệm kinh hoàng của địa ngục.
Thiền không hối
lộ ta bằng những giải thưởng, và cũng không trừng phạt ta bằng những tra tấn. Thiền chỉ giản dị mang cho
một cái nhìn sâu sắc vào sự việc........và cái
nhìn sâu sắc đó giải phóng ta. Cái trực giác đó không có nền
tảng của tham lam và không lấy sợ hãi
làm điểm tựa. Tất cả các tôn giáo khác đều có tham lam, tất cả các tôn giáo khác đều đặt căn bản sâu nặng trên những sợ hãi. Vì vậy ta dùng chữ “
sợ thần-thánh” cho người có tín ngưỡng.......một người có tín ngưỡng là người sợ thần thánh.
Thế nhưng tại sao sợ
hãi có thể là tín ngưỡng? Không thể được. Sơ hãi không
thể là tín ngưỡng.........tín
ngưỡng là
sự không sợ hãi mà thôi. Khi có ý tưởng về tốt và xấu, ta không thể nào trở thành
không sợ hãi. Ý nghĩ về tốt và xấu
làm cho con người cảm thấy có tội, làm cho tê liệt, làm cho con người tàn tật. Làm thế nào có thể giúp con người thoát khỏi mọi sự sợ hãi? Không
thể được. Ngược lại ta chỉ tạo thêm nhiều sợ hãi hơn là can đảm.
Người bình thường không có tín ngưỡng thì lại ít sợ, có phần ít sợ hãi hơn là người có tín ngưỡng. Người
có tín ngưỡng trong lòng luôn luôn run sợ, luôn luôn hồi hộp không
biết họ có thành công hay không. Những mẩu chuyện về nghiệp báo mà các nhà sư
giảng dậy làm cho người ta sợ làm lỗi lầm, sợ bị tái sanh vào địa ngục? Không dám làm gì. Hay
họ sẽ có thể làm một việc
không thể làm để lên thiên đàng?
Tôn giáo đặt căn bản trên lòng tham lam và sự sợ hãi rất thường xuyên. Cũng từ một cái tham lam có nhiều tiền ngày nào nó biến đổi thành tham lam trở thành Thượng Đế hay tham lam tái sanh vào cõi cực lạc. Lúc đó, Thượng Đế hay cõi cực lạc trở thành tiền bạc của mình. Bây giờ ta sợ nhà cầm quyền, sợ cảnh sát, sợ cái này hay cái
nọ.......và ta cũng bắt đầu sợ địa ngục, và tối cao pháp viện; sợ tới tối cao pháp viện của Thượng Đế, ngày phán xét sau
cùng.
Thông hiểu cũng
đủ. Hãy để sự thông hiểu là một định luật duy nhất; không có
gì khác hơn. Đừng bị lay
chuyển vì sợ hãi; nếu
không ta sẽ đi vào tối tăm. Và cũng đừng bị lay chuyển vì tham lam....... vì tham lam chỉ là sợ
hãi đảo ngược. Cùng một vấn đề có
hai khía cạnh; một phía là tham lam, phía kia là sợ hãi. Người có tính sợ hãi luôn luôn tham lam, người có tính tham lam luôn luôn có tính sợ hãi; chúng ở cạnh nhau và song hành với nhau.
Chỉ có sự nhận thức
và thông hiểu, chỉ với khả năng nhìn thấy bản thể của sự việc..... có thể
nào ta chấp nhận bản thể của sự hiện hữu không? Và bằng cách không chấp nhận nó, cũng không có gì thay đổi. Cái gì đã
từng thay đổi? Từ ngàn năm ta đã chối bỏ rất nhiều việc.....cho tới ngày nay.....chúng vẫn
còn đó, lại còn nhiều hơn
nữa. Kẻ trộm cắp không biến mất. Kẻ giết người cũng không biến mất. Không có gì
thay đổi; mọi việc vẫn y
nguyên
như chúng đã luôn luôn là như thế. Nhà
tù tiếp tục được xây lên nhiều
hơn. Luật lệ tiếp tục gia tăng và trở nên phức tạp
hơn. Nhưng chẳng có gì thay đổi.
Không có gì thay đổi. Đây không phải là đường lối thay đổi sự việc, nó đã chứng minh sự thất bại hoàn
toàn. Thiền nói thay đổi đến từ hiểu biết, chứ không do sự áp đặt bất cứ cái gì.
Thiên đàng và địa ngục là
gì? Không là gì ngoài cùng một ý tưởng giống nhưng được mang vượt xa ra ngoài cuộc sống. Cùng một ý tưởng của
nhà tù trở thành ý tưởng của
địa
ngục. Và cùng một ý tưởng khen thưởng ... .... tưởng lục của chính phủ, phần thưởng của tổng thống, huy
chương vàng, cái này cái nọ ... ... ... .. cùng một ý tưởng đó mang thành thiên đường, niết bàn. Nhưng tâm lý căn bản là
như nhau.
Thiền phá hủy cái tâm lý đó từ cội rễ. Thiền
không lên án bất cứ cái gì. Thiền chỉ có độc nhất sự hiểu biết; thiền dậy cố
gắng hiểu biết về bản thể của sự việc. Ráng hiểu biết con ngườI như là con
người……đừng áp đặt một lý tưởng nào, và cũng đừng bảo người ta phải làm như thế
nào.
Ngay khi bảo con người phải như thế nào, là
ta đã trở thành mù quáng về thực thể của con người đó. Ý tưởng “Đáng
lẽ ra” thành quá nặng nề. Khi mình có một lý tưởng, một lý tưởng toàn hảo,
và mọi người khác, đương nhiên, không đạt tới được. Khi đó mọi người
bị ta kết án.
Những người ngã mạn bằng cách nào đó có thể
thu xếp cưỡng ép chính họ vào những lý tưởng này…… có tính cách ít giả tạo
nhất, ít bộc lộ nhất……. trở thành bậc thánh vĩ đại. Họ không là gì cả trừ cái
ngã mạn to tướng. Và họ lại ở ngay đây kết án và chuyển hóa
bạn.
Thiền định không lưu tâm đến sự chuyển hóa của bất cứ ai. Nhưng
thiền định là chuyển hoá……. Đó là sự mâu thuẫn. Thiền không quan tâm đến việc
đáng lẽ phải như thế nào; thiền chỉ quan tâm tới bản thể của con người. Giám
sát bản thể, giám sát với đôi mắt thương yêu, săn sóc. Cố tìm hiểu nó là gì và
từ sự hiểu biết này sự chuyển hóa đi đến. Sự
chuyển hóa là tự nhiên…… không ai phải nhúng tay vào, nó xuất
hiện theo phương cách riêng của nó.
Achema – Malaysia 2009
Achema – Malaysia 2009
Kim Morris lược dịch March 2011
No comments:
Post a Comment