Tám Tiết thơ giúp tập luyện Tâm thức
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma
Hoang Phong chuyển ngữ
Lời
giới thiệu: Bài chuyển ngữ dưới
đây trích từ một quyển sách của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma mang tựa đề "Tâm Thức Giác Ngộ, Những lời khuyên
Trí tuệ cho những con người ngày nay" (L'Esprit en Eveil, Conseils de Sagesse aux hommes d'aujourd'hui,
nxb Presses du Chatelet, 2009. Phiên bản tiếng Anh: In My Own Words, nxb Hay House, 2008). Phần chuyển ngữ gồm toàn bộ
một chương ngắn (chương 8, tr. 121-129) bình giảng một bài thơ gồm tám tiết bốn
câu do một nhà sư Tây Tạng thuộc hậu bán thế kỷ XI và tiền bán thế kỷ XII trước
tác nhằm vào việc luyện tập tâm thức cho một người tu tập Đạo Pháp.
"Tám Tiết thơ giúp tập luyện Tâm thức"
là tựa của một bài thơ ngắn do một nhà sư Tây Tạng là Guéshé Langri Tangpa
(1054-1123) trước tác với chủ đích giúp phát huy tinh thần giác ngộ qua phép
thiền định về hoán chuyển giữa ta và người khác, (một phép thiền định rất phổ thông của Phật giáo Tây Tạng: đó là cách tự
nguyện xin được nhận về phần mình tất cả khổ đau của người khác, và trao lại
cho họ tất cả những gì đạo hạnh của mình), và xem đấy là mục đích cao cả nhất
trong cuộc sống của chính mình. Tôi được nghe giảng về các tiết thơ này từ thuở
còn bé khi tôi còn ở Lhassa, và từ đấy mỗi ngày tôi đều đọc lên những tiết thơ ấy,
đấy cũng là những gì thuộc vào sự tu tập hằng ngày của tôi. Những tiết thư ấy
như sau:
"Tôi
quyết tâm hành động bằng mọi cách để mang lại
Sự
an vui tuyệt vời cho tất cả chúng sinh,
Sự
tuyệt vời ấy vượt lên trên tất cả những thứ bùa phép mầu nhiệm nhất,
Tôi
xin được yêu thương chúng sinh với tất cả tâm hồn tôi.
Mỗi
khi tiếp xúc với họ,
Tôi
xin tự xem mình là người kém cỏi nhất,
Và
trong tận đáy lòng, tôi xin kính cẩn xem tất cả
Đều
là những con người tối thượng.
Đối
với từng hành động, tôi xin luôn dò xét
Trong
tận cùng tâm thức, nếu có một xúc cảm bấn loạn nào lóe lên,
Có
thể mang lại nguy hại cho người khác hoặc cho tôi,
Thì
tôi sẽ cương quyết chống lại hầu loại bỏ nó.
Tôi
xin yêu thương tất cả chúng sinh hung dữ,
Những
ai đã tạo ra những thảm họa nặng nề,
Và
những khổ đau mênh mông,
Tôi
xin yêu thương họ như vừa khám phá ra một gia tài vô giá.
Vì
ganh ghét mà một số người ngược đãi tôi,
Trút
lên tôi những lời nhục mạ, vu khống và mọi điều tệ hại khác,
Thì
trước những thử thách ấy, tôi xin nhẫn nhục chịu đựng,
Và
hiến dâng cho họ tất cả sự vinh quang.
Đối
với những người vô cớ làm tôi bị thương tổn nặng nề,
Dù
tôi từng mang lại sự tốt lành cho họ và đặt hết lòng tin nơi họ,
Thì
tôi xin vẫn được xem họ
Như
những vị thầy tâm linh tốt nhất của tôi.
Tóm
lại tôi xin mang lại cho tất cả chúng sinh,
Dù
trực tiếp hay gián tiếp và không phân biệt một ai
Mọi
sự giúp đỡ và những niềm phúc hạnh của tôi,
Và
đổi lại, tôi xin gánh vác với tất cả sự kính cẩn
Những
bất hạnh và khổ đau của những người mẹ của tôi, (xem
tất cả chúng sinh như những người mẹ của mình).
Tôi
xin cố gắng giữ cho các phép tu tập ấy
Không
bị ô nhiễm bởi tám mối lo toan thế tục, (gồm có: lợi lộc, lạc
thú, ngợi khen, vinh quang, danh vọng, thua thiệt, khổ đau, thất sủng, quở phạt) .
Và
khi đã thấu hiểu được thế nào là bản chất ảo giác của mọi hiện tượng,
Thì
khi ấy tôi cũng sẽ được giải thoát khỏi sự trói buộc của bám víu".
Bảy
tiết đầu tiên của bài "Tám tiết thơ
giúp tập luyện tâm thức" đề cập đến chủ đề liên quan đến thể dạng giác
ngộ quy ước (hay tương đối) của tâm thức mà thuật ngữ Phật
giáo gọi là bồ-đề-tâm (bodhicita) tương đối. Tiết sau cùng nêu lên thật
ngắn gọn thể dạng thứ hai của sự giác ngộ là bồ-đề-tâm tuyệt đối.
Tiết thứ nhất của bài thơ mang ý nghĩa như sau: "Những ai đã quyết tâm mang lại sự an
vui tối thượng cho tất cả chúng sinh, một sự an vui quý giá hơn cả viên bảo
châu mầu nhiệm giúp thực hiện được mọi điều nguyện ước, tất nhiên sẽ phát nguyện
như sau: xin cho tôi được mãi mãi yêu thương tất cả chúng sinh". Tiết
thơ nêu lên sự tương kết giữa "tôi" và người khác. Thế nhưng trên thực
tế sự tương kết đó có thật sự xảy ra hay không? Trong cuộc sống thường nhật, thật
ra ta chỉ biết quan tâm - tất nhiên là với tất cả sự hăng say - đến cá nhân
mình và quyền lợi của mình. Ta đặt lên trên hết sự tìm kiếm an vui hầu mang lại
hạnh phúc và tránh khỏi khổ đau cho riêng mình. Đấy là mối bận tâm hàng đầu và
trọng đại nhất so với tất cả những mối bận tâm khác, và đấy cũng là gánh nặng
mà ta phải tự đảm trách cho mình. Trong khi đó, việc lo toan cho người khác thì
ta lại đặt xuống hàng thứ yếu, không có gì đáng để quan tâm hoặc đấy là một thứ
gì hoàn toàn vô nghĩa.
Thực
trạng đó phải được thay đổi, chúng ta phải gia tăng sự luyện tập tâm thức đến một
mức độ có thể hoán đổi được việc xem sự an vui của chính mình là quan trọng hơn
hết và đặt sự an vui của người khác xuống hàng thứ yếu. Chúng ta cần phải phát
huy một sự kính trọng sâu xa và một mối quan tâm chân thật đến sự an vui của
người khác và đồng thời không nên quan tâm quá đáng đến sự an vui của chính
mình. Đấy là mục đích cần phải thực hiện. Muốn thành công ta phải luyện tập tâm
thức mình thật chuyên cần, sự luyện tập đó dựa vào nhiều phương pháp khác nhau.
Tiết
thứ hai là: "Mỗi khi có dịp tiếp xúc
với người khác, tôi xin tự xem mình là người kém cỏi hơn cả, và tất cả các người
khác đều hàm chứa một giá trị tối thượng, sự quán nhận ấy xuất phát tự đáy tim
tôi". Tất nhiên là cách cư xử khiêm tốn nêu lên trong tiết thơ trên
đây trái ngược lại với thái độ trịch thượng mà ta thường có khi phóng nhìn vào
người khác. Vì thế ta nên thay đổi thái độ đó và phải kính trọng tất cả chúng
sinh, xem tất cả chúng sinh đều là anh chị em của mình và riêng mình thì phải
là người thấp kém nhất khi so sánh với họ. Ta phải biết yêu thương họ và mang
thân xác, tâm thức cũng như toàn diện con người của ta để hướng vào mục đích
mang lại sự an vui cho tất cả chúng sinh mà chính chúng ta đã đặt họ lên hàng tối
thượng.
Tiết
thứ ba là: "Đối với từng hành động,
tôi xin luôn canh chừng từ trong tận cùng của tâm thức tôi, nếu thấy có một sự
hiềm khích hay méo mó nào xảy ra có thể mang lại nguy hại cho người khác và cho
tôi, thì tôi sẽ cương quyết đương đầu ngay hầu loại bỏ nó". Chỉ khi
nào biết thương yêu người khác và tự đặt mình vào một vị thế khiêm tốn, thì khi
đó chúng ta mới có thể nhận thấy được những gì lệch lạc sẵn có trong tâm thức của
mình từ trước, chẳng hạn như thái độ tâm thần lầm lạc tự cho mình là quan trọng
hơn hết, hoặc các quan điểm sai lầm về bản chất thật sự của chính mình. Tiết
thơ thứ ba nêu lên các sự lệch lạc ấy nhằm khuyên chúng ta phải canh chừng ngay
từ bên trong tâm thức để ngăn chận không cho các cách hành xử lầm lẫn như thế
có thể xảy ra. Khi chúng vừa loé lên thì ta phải kiểm soát ngay tâm ý của mình,
tương tự như ta phải canh chừng an ninh cho một ngôi nhà. Sự canh chừng đó phải
thật cẩn trọng và cảnh giác, sự cẩn trọng và cảnh giác ấy có thể so sánh với
hai người lính cảnh sát của nội tâm. Khi tâm thức đã được canh giữ cẩn thận thì
ta sẽ không còn cần đến sự kiểm soát của bất cứ một người cảnh sát nào ở bên
ngoài, vì trong trường hợp đó đương nhiên ta sẽ không phạm vào các hành động
thiếu đạo hạnh và độc hại. Thế nhưng nếu không có hai người cảnh sát bên trong
- tức sự cẩn trọng và cảnh giác - canh giữ, thì dù cho hùng mạnh đến đâu các lực
lượng cảnh sát bên ngoài cũng khó mà kiểm soát được một tình trạng hung bạo khi
nó đã bùng nổ ra. Thật cũng không đến đỗi quá khó để nhận thấy điều ấy, sự can
thiệp của cảnh sát nào mấy khi hiệu quả trước những thảm cảnh do khủng bố gây
ra.
Tiết
thứ tư là: "Mỗi khi trông thấy các
chúng sinh hung ác phải gánh chịu sức mạnh nghiền nát của những hành động hung
bạo và sai lầm, thì tôi xin được xem họ như những gì trân quý nhất, tương tự
như tôi vừa khám phá ra một kho tàng". Nội dung của tiết thơ nêu lên
trường hợp những kẻ ghê tởm nhất, chẳng hạn như những kẻ ăn thịt người hay những
kẻ thật tồi tệ. Mặc dù không hề có ý định làm hại họ, thế nhưng thói thường
chúng ta vẫn tìm cách tránh né họ và quay ra hướng khác để tránh mọi sự giao tiếp
với họ. Thế nhưng thật ra ta không nên giữ thái độ như thế. Những gì mà chúng
ta cần phải tập là yêu thương họ, dù cho họ đang hiện diện trước mặt ta hay
không cũng thế. Chúng ta phải cố gắng tập luyện như thế nào để mỗi khi gặp họ
ta sẽ không thốt lên: "Thật khổ! Lại phải làm một cái gì đây để giúp họ!",
hoặc: "Lại thêm một gánh nặng nữa, một sự khổ nhọc nữa phải gánh
vác!". Thay vì phản ứng như vậy khi gặp họ, thì ta nên tìm thấy niềm hân
hoan như vừa khám phá ra một viên bảo châu quý giá, một kho tàng hay một cái gì
đó thật tuyệt vời, phải xem đấy là một cơ hội hiếm hoi mang lại cho ta dịp may
để giúp đỡ họ.
Tiết
thứ năm là: "Khi người khác trút lên
đầu tôi mọi sự giận dữ, nguyền rủa tôi, vu khống tôi, hoặc mang lại mọi thứ tệ
hại khác cho tôi, thì xin cho tôi đủ sức gánh chịu mọi sự thua thiệt và hiến
dâng cho họ sự vinh quang". Thật hết sức quan trọng phải giữ một thái
độ rộng mở và thiết tha yêu thương người khác. Tuy nhiên hơn thế nữa việc tu tập
còn đòi hỏi chúng ta nhất thiết phải giữ thái độ ấy đối với những ai vì một lý
do nào đó muốn làm hại ta, dù đấy là trường hợp họ bị khích động bởi sự giận dữ
thúc đẩy họ thực thi những ý đồ lắt léo nhằm mục đích cố tình làm thương tổn đến
ta, hay đấy là trường hợp mà họ chỉ mang những ý định ấy trong đầu cũng vậy.
Trong các trường hợp như thế, ta phải xem họ như những gì vô cùng quý giá. Thái
độ mà ta phải giữ đối với những người khi mà sự ác ý của họ chuyển thành hành động
chống lại ta, là phải chấp nhận sự thua thiệt và mất mát về phần mình và nhường
cho họ sự chiến thắng. Đấy là ý nghĩa của tiết thơ trên đây.
Tiết
thứ sáu là: "Đối với một người mà
tôi hằng mang lại điều tốt cho họ, thế nhưng họ lại đối xử tồi tệ với tôi, thì
xin cho tôi được xem người ấy như một vị đạo sư tối thượng". Tất nhiên
trong số trùng trùng điệp chúng sinh, luôn luôn có một số nào đó mà ta phải miễn
cưỡng giúp đỡ họ, hoặc phải cố gắng tỏ ra thật tốt đối với họ - đấy là một thái
độ cao cả và thích đáng. Thói thường người được giúp đỡ phải tỏ ra biết ơn và
phải có một vài cử chỉ nào đó trước lòng tốt của ta. Thế nhưng cũng có trường hợp
mà người được ta giúp đỡ lại đối xử một cách quá thấp kém không xứng đáng với
hành động của ta. Trường hợp đó khiến cho ta cảm thấy bị tổn thương và bị đối xử
tệ bạc. Vậy một người đang tu tập cách hành xử trong cuộc sống hay nói cách
khác là một vị bồ-tát, thì phải phản ứng ra sao? Tất nhiên là phải đối xử với
người ấy như là một vị đạo sư hướng dẫn tâm linh cho mình, và xem đấy là một dịp
may vô cùng quý giá được gặp một người như thế để yêu mến họ, bởi vì chính họ
đã mang lại một cơ hội hiếm hoi để giúp mình luyện tập sự kiên nhẫn và lòng bao
dung. Đấy là thể dạng tâm thức mà người bồ-tát phải tập luyện.
Sau
đây chúng ta xét đến nội dung của tiết thứ bảy, đấy là: "Tóm lại, tôi xin được trực tiếp hay gián tiếp mang lại sự tốt
lành và tình thương cho tất cả những người mẹ của tôi; tôi xin được kín đáo nhận
chịu về phần tôi tất cả những bất hạnh và khổ đau của những người mẹ ấy".
Trường hợp này vẫn còn thuộc vào cấp bậc giác ngộ tương đối của tâm
thức. Nếu muốn cho cách hành xử tốt đẹp đó, tức là yêu thương người
khác hơn cả chính mình, được phát huy thật cao độ và nhiệt tình, thì nó phải được
thoát ra từ cội nguồn của lòng từ bi. Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó
không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những
ước nguyện mãnh liệt cầu mong sao cho họ tìm được sự giải thoát trước những khổ
đau ấy. Tất nhiên một mặt chúng ta phải biết lo lắng sâu xa khi nghĩ đến những
cảnh thống khổ của người khác, thế nhưng một mặt khác thì chúng ta cũng phải biết
mở rộng lòng mình cho niềm hân hoan tràn ngập, khi chúng ta nhìn thấy những cảnh
hạnh phúc và an vui của người khác, và đấy cũng là một cách phát lộ lòng tốt và
tình thương của mình. Cả hai thái độ ấy - tức lòng từ bi và sự hân hoan phát
sinh từ tình thương chân thật - là cội nguồn giúp cho yêu thương bám rễ, và sự
yêu thương đó sẽ thúc đẩy chúng ta nên nghĩ đến người khác hơn là chính mình. Đấy
cũng là nguyên tắc căn bản trong phép luyện tập gọi là tonglen (tức là cách hiến dâng và nhận lãnh) mà tiết thơ trên đây
đã nêu lên.
Thật
ra trên thực tế, sự kiện hoán chuyển hạnh phúc của mình cho người khác và ngược
lại xin nhận chịu khổ đau của họ chỉ có thể xảy ra được trong một số trường hợp
thật hiếm hoi: tức là chỉ có thể thực hiện được khi nào giữa ta và người ấy đã
từng có một sự liên hệ và tương quan nghiệp lực thật đặc biệt nào đó từ các kiếp
trước. Chỉ trong các trường hợp như thế thì sự hoán chuyển khổ đau của người
khác sang cho cho mình may ra mới có thể xảy ra được, trên thực tế thì chuyện ấy
rất khó thực hiện. Thế nhưng tại sao lại khuyến khích mọi người nên tập luyện
theo phép tu tập ấy? Bởi vì đấy là một
phương pháp giúp đạt được một cá tính cực mạnh, một lòng quả cảm vô song và một
sự nhiệt tình sâu đậm; những phẩm tính ấy sẽ giúp cho sự tu tập của mình thăng
tiến nhanh hơn trên đường đưa đến giác ngộ tâm linh.
Tiết
thứ tám và cũng là tiết cuối cùng mang ý nghĩa như sau: "Cầu xin cho sự tu tập của tôi tránh được mọi sự ô nhiễm của tám mối
lo toan thế tục. Vì quán nhận được tất cả các dharma tức là các thành phần cấu
hợp tạo ra mọi hiện tượng đều là ảo giác, nên tôi cầu xin loại bỏ được chúng hầu
giải thoát cho tôi ra khỏi sự trói buộc của các chu kỳ hiện hữu". Ý
nghĩa nêu lên trong tiết thơ thứ tám là sự giác ngộ tuyệt đối của tâm thức.
Trong khi các tiết khác chỉ nhắm vào các phương tiện tu tập, thì tiết thứ tám lại
hướng trực tiếp vào con đường giác ngộ tâm linh.
Phát
huy tâm thức hướng vào mục đích yêu thương người khác hơn cả chính mình đôi khi
cũng cho thấy một sự nguy hiểm nào đó, bởi vì chúng ta từng bị chi phối từ quá
lâu đời bởi những lệch lạc tâm thần thường phát sinh khi tu tập Đạo Pháp. Vì muốn
được nhiều người biết đến nên đôi khi ta cũng có thể rơi vào sự thèm khát uy
danh do phép tu tập vì lòng lòng vị tha mang lại; hoặc biết đâu từ trong thâm
tâm ta cũng mong đợi một cách kín đáo những người được hưởng các thành quả tu tập
của ta sẽ mang tặng ta những món quà hồi đáp. Hoặc giả ta cũng có thể thốt lên:
"Chính thế! Tôi đây là một người tu hành, một người tu tập Đạo
Pháp!". Đó là những gì có thể mang lại cho ta những cảm tính kiêu hãnh để
tự thấy mình cao hơn và chính mình là người ban ơn cho kẻ khác. Tất cả những sự
méo mó tâm thần đó và các thái độ do chúng làm phát sinh có thể xảy ra với
chúng ta bất cứ lúc nào. Vì thế việc tu tập mang lại giác ngộ cho tâm thức cũng
có thể trở nên nguy hiểm, do đó chúng ta phải thật thận trọng không để vướng
vào những gì mà người ta gọi là "tám mối lo toan của thế tục" (còn gọi
là "tám dharma thế tục") (có thể
xem thêm bài viết "Khái niệm về tám mối lo toan thế tục" của Hoang
Phong trên các mạng Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức,...), trong số các mối lo toan đó có thể kể ra: hy vọng được vinh quang,
hy vọng được ngợi khen, hy vọng được thích thú, hy vọng được lợi lộc... Nhất định
phải loại bỏ hoàn toàn những thứ lệch lạc ấy ra khỏi việc tu tập Đạo Pháp của
mình. Phải giữ cho sự tu tập được tinh khiết, tức là phải hoàn toàn quên mình
và đặt người khác lên trên mọi sự ngờ vực. Đấy là một điều vô cùng quan trọng.
Vài lời lạm bàn của người dịch
Đức
Đạt-Lai Lạt-Ma viết và thuyết giảng theo nhiều cấp bậc khác nhau nhằm mục đích
thích nghi với quảng đại người đọc và người nghe. Quyển sách trên đây thuộc vào
một cấp bậc khá đại cương, thế nhưng cũng vô cùng sâu sắc. Bài thơ của nhà sư
Guéshé Langri Tangpa trên đây có thể xem như một bài kinh ngắn, và những lời
bình giảng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma tuy ngắn gọn, dễ hiểu nhưng thật ra rất thâm
sâu và uyên bác, thế nhưng thiết nghĩ một vài lời ghi chú thêm về một vài chi
tiết biết đâu cũng có thể giúp cho người đọc dễ theo dõi hơn nữa về bài thơ
cũng như phần bình giải của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma. Các lời ghi chú này gồm trong
ba chủ đề: thứ nhất là tính cách thiết thực của việc tu tập do bài thơ nêu lên,
thứ hai là sự kiện nêu lên trong tiết thơ thứ bảy cho rằng tất cả chúng sinh đều
là những người mẹ của mình, thứ ba là khái niệm về sự giác ngộ tuyệt đối nêu lên trong tiết thơ thứ tám thay cho phần
kết luận của toàn bộ bài thơ.
Tính cách thiết thực của bài thơ
Mở
đầu cho phần thuyết giảng Đức Đạt-Lai Lạt-Ma cho biết là nội dung của bảy tiết
thơ đầu tiên thuộc lãnh vực của sự giác ngộ quy ước còn gọi là bồ-đề-tâm
tương đối. Vậy sự giác ngộ hay bồ-đề-tâm quy ước là gì?
Đó
là những lời nguyện ước và các cách hành xử của một người bồ-tát.
Vì thế trong mỗi tiết thơ chúng ta đều nhận thấy trước hết là sự nguyện ước, sau đó là hành động:
-
tiết thứ nhất: quyết tâm thực hiện sự an vui cho tất cả chúng sinh - tôi xin
yêu thương tất cả họ.
-
tiết thứ hai: xin được làm người khiêm tốn nhất - xem tất cả các chúng sinh
khác đều cao hơn mình.
-
tiết thứ ba: nguyện canh chừng từng xúc cảm bấn loạn - cương quyết đương đầu và
loại bỏ các xúc cảm ấy.
-
tiết thứ tư: xin hội đủ nghị lực để yêu thương những người hung ác - xem họ như
một gia tài quý báu khôn lường.
-
tiết thứ năm: xin nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi của những người hung ác - hiến
dâng cho họ sự vinh quang.
-
tiết thứ sáu: nguyện rằng nếu những người mà mình hằng giúp đỡ làm thương tổn đến
mình - thì sẽ xem họ như những vị thầy tốt nhất.
-
tiết thứ bảy: nguyện hiến dâng hạnh phúc của riêng mình cho tất cả các người mẹ
- xin gánh chịu tất cả khổ đau của họ.
Các quyết
tâm và các cách hành xử trên đây
là những phương tiện thiện xảo (upaya) giúp các người tu tập và các vị bồ-tát
thăng tiến trên đường giác ngộ. Các phương tiện thiện xảo đó cũng có thể xem
như những phương thuốc hóa giải giúp cho một cá thể khống chế cái tôi của mình. Thật vậy đối với một
người tu tập, cái tôi luôn luôn là một
trở ngại to lớn nhất và kiên cố nhất. Chẳng những "cái tôi" là một bức
tường vững chắc ngăn chận con đường hướng về giác ngộ mà còn là một yếu tố tâm
thần gây ra mọi thứ xúc cảm bấn loạn trong tâm thức và cũng là nguyên nhân
chính yếu nhất trói buộc một cá thể trong chu kỳ bất tận của luân hồi. Một cách
vắn tắt, bảy tiết thơ đầu tiên là những liều thuốc hóa giải giúp cho người tu tập
quên mình để phát động lòng từ bi hướng vào người khác, hầu vượt lên trên cái
ngã của mình. Tuy nhiên liều thuốc nêu lên trong tiết thơ thứ bảy có vẻ là một
liều thuốc mạnh hơn hết, đó là cách tập cho mình nhìn vào tất cả chúng sinh và
xem họ là những người mẹ của mình. Vậy ý nghĩa thật sự của tiết thơ này ra sao?
Xem tất cả chúng sinh đều là những
người mẹ của mình
Nội
dung của toàn bài thơ được dựa trên nguyên tắc của phép tu tập gọi là "phép hoán chuyển giữa ta và người khác" (tonglen), thế nhưng ý nghĩa của tiết thơ
thứ bảy biểu trưng rõ rệt và trực tiếp nhất cho nguyên tắc đó: tức nhận chịu mọi
khổ đau của người khác và hiến dâng cho họ tất cả hạnh phúc của mình. Người
khác ở đây có nghĩa là tất cả chúng sinh và đấy cũng là tất cả những người mẹ của
mình, gồm người mẹ trong kiếp sống này và tất cả những người mẹ của mình trong
muôn ngàn kiếp trước. Những người mẹ ấy tất nhiên đã tái sinh và biết đâu họ là
những chúng sinh đang sống bên cạnh chúng ta hôm nay, hoặc đang hiện hữu khắp
nơi trong thế giới này. Chúng ta phải cư xử với họ như những người mẹ của mình.
Do đó thiết nghĩ cũng nên mở thêm một dấu ngoặc ở đây để nghĩ rằng Vu Lan không
nhất thiết là một dịp lễ để chúng ta cầu an hay cầu siêu cho một người mẹ, mà
đúng hơn là một dịp để mỗi chúng ta hồi hướng tất cả công đức và hiến dâng hạnh
phúc của mình cho tất cả những người mẹ trong ba ngàn thế giới thế giới, đã từng
sinh ra mình trong quá khứ và sẽ còn sinh ra mình trong tương lai. Các chữ "trực tiếp" trong tiết thơ thứ
bảy là có ý nói đến người mẹ của mình trong kiếp sống này, và chữ "gián tiếp" là để chỉ tất cả
những người mẹ của mình trong quá khứ xuyên qua hình tướng của những chúng sinh
khác.
Phép
tu tập "hoán chuyển giữa ta và người
khác" nêu lên trong tiết thơ thứ bảy là do Tịch Thiên (thế kỷ thứ
VIII) đề nghị trong tập Nhập Bồ-đề Hành
luận (Bodhicaryavatara) và cũng
biểu trưng cho liều thuốc hóa giải mạnh nhất để chống lại cái tôi hay cái ngã.
Tuy nhiên Đức Đạt-Lai Lạt-Ma cũng nhắc cho chúng ta biết nội dung của tiết thơ
thứ bảy vẫn còn thuộc vào lãnh vực của bồ-đề-tâm
tương đối. Vậy bồ-đề-tâm tuyệt đối
là gì và phần kết luận trong tiết thơ thứ tám muốn nói lên điều gì?
Khái niệm về Bồ-đề-tâm
Bồ-đề-tâm
tiếng Phạn là Bodhicitta, bodhi có nghĩa là tỉnh thức, tỉnh giác
hay giác ngộ, citta là tâm trí, tâm
thức... Sở dĩ mạn phép dài dòng như trên đây vì nguyên gốc Hán ngữ của chữ tâm
có nghĩa là tim, thế nhưng chữ tâm trong thuật ngữ bồ-đề-tâm lại có nghĩa là lý
trí hay trí tuệ và không tượng trưng cho một thể dạng xúc cảm nào cả. Bồ-đề-tâm
do đó có nghĩa là "Tâm thức giác ngộ", "Tinh thần giác ngộ"
hay "Tư duy giác ngộ"... Bồ-đề-tâm là một khái niệm xác định vị trí,
lý tưởng, hành động và sự giác ngộ của một người bồ-tát, do đó bồ-đề-tâm được
xem là khái niệm căn bản nhất của Phật giáo Đại thừa nói chung và của Phật giáo
Tây Tạng nói riêng. Bồ-đề-tâm gồm có hai
thể dạng khác nhau là bồ-đề-tâm tương đối và bồ-đề-tâm tuyệt đối, mà Đức Đạt-Lai
Lạt-Ma còn gọi một cách khác là sự giác ngộ quy ước và sự giác ngộ tuyệt đối. Một
cách tổng quát Bồ-đề-tâm tương đối biểu trưng cho lòng từ bi và bồ-đề-tâm tuyệt
đối biểu trưng cho sự Giác ngộ hay Trí tuệ.
Bồ-đề-tâm tương đối (samvrtibodhicitta) gồm có hai thể dạng
là bồ-đề-tâm ước vọng tức là sự biểu
lộ ước nguyện của người bồ-tát ước mong đạt được giác ngộ vì lợi ích của chúng
sinh, và bồ-đề-tâm thực hiện tức là
hành động của người bồ-tát. Hai thể dạng ấy được thể hiện trong bảy tiết đầu
tiên của bài thơ.
Bồ đề tâm tuyệt đối (paramarthabodhicitta) là sự quán nhận hai thứ tánh không (sunyata) cùng một lúc: tánh không của một "cái tôi cá thể" và "bản chất vô thực thể"
tức ảo giác của mọi hiện tượng, và cũng thật tuyệt vời vì tuy rằng tất cả đều
là trống không thế nhưng bồ-đề-tâm tuyệt đối vẫn hàm chứa một sức mạnh quán thấy
được Phật tính nơi mỗi chúng sinh. Nói cách khác bồ-đề-tâm-tuyệt đối là khả năng cảm nhận thật sâu xa bản thể
"như lai" (tathata - ainsité,
suchness) của hiện thực. Đấy là ý nghĩa biểu trưng cho sự Giác ngộ và Giải
thoát nêu lên trong tiết thơ thứ tám thay cho phần kết luận.
Tóm
lại khi nào chúng ta chưa đủ sức chuyển động chung với vô thường, hòa nhập với bản
chất vô thực thể của vũ trụ và nhìn thấy Phật tính trong nơi sâu kín của mỗi chúng sinh thì khi ấy chúng ta
vẫn còn là kẻ tôi đòi của sự bám víu và nô lệ cho cái tôi đang chỉ huy từ bên
trong tâm thức của chính mình.
Bures-Sur-Yvette,
29.07.11
Hoang
Phong
No comments:
Post a Comment