Friday, March 9, 2012

Achema - Zen - Compassion Energy

Lòng Từ Bi 3
Năng lực của Từ Bi.
Sau khi Thái Tử Tất Đạt Đa đạt đưc giác ngộ, cái ngã của Ngài tan biến, và những ham muốn cũng biến mt theo. Khi không còn ham muốn nữa làm sao tấm thân còn tiếp tục tồn tại được? Công việc xong rồi nó biến mất chứ. Tại sao Đức Phật có thể ở nán lại trong nhục thể lâu hơn được?
Muốn hiểu vấn đề này, chúng ta cần hiểu vài điều sâu xa hơn. Khi sự ham muốn tan biến, năng lực của ham muốn không thể tan theo với ngay, cái năng lực này vẫn tồn tại, nhưng nó sẽ chuyển sang một hình thể khác. Ham muốn chỉ là hình thể của cái năng lực đó; vì thế ta có thể chuyển nó vào chỗ khác. Thí dụ như: giận dữ có thể trở thành ham dục. Ham dục có thể trở thành giận dữ. Một người đang thật giận dữ sẽ không có thích thú về tình dục. Tất cả năng lực của tình dục đã trở thành giận dữ. Đây là một trong những lý do ta thấy một người nào đang bị đè nén tình dục người đó sẽ bị giận dữ, sự giận dữ luôn luôn sẵn sàng trồi lên trên mặt. Cho dẫu người đó giữ im lặng, họ cũng không thể che dấu được trong ánh mắt, trên vẻ mặt.
Cái gì xẩy ra khi mọi ham muốn biến mất? Năng lực không thể chỉ biến đi một cách nhanh như thế; năng lực không bao giờ bị huỷ diệt. Nó cần biến đổi sang một thể khác. Một năng lực nào đó đã hiện hữu trong Phật Cồ Đàm khi Ngài đạt giác ngộ. Những năng lực này đã chuyển động trong tình dục, trong giận dữ, trong tham lam, trong cả triệu phương cách. Rồi những thể dạng đó biến dạng.....thế thì cái năng lực đó đi đâu? Năng lực không thể thoát ra ngoài sự hiện hữu, nên khi ham muốn không còn nữa, năng lực thành vô hình nhưng vẫn còn đó. Tất cả năng lực đó chuyển hoá sang Từ bi, bác ái (Compassion).
Ta không thể nào biết từ bi bác ái là gìta vẫn còn tham lam, còn ham dục, còn giận dữ, vân vân....Ta không thể trở thành từ bi vì còn thiếu năng lực. Mọi năng lực của ta đã bị phân tán ra nhiều trạng thái khác nhau.... đôi khi là tham lam, đôi khi là nóng giận, đôi khi là tình dục.....Chỉ khi nào tất cả các ham muốn tan biết mất, khi đó năng lực mới chuyển thành từ bi, bác ái.
Nếu không có sự hiểu biết thấu đáo về nguyên tắc này, người ta cứ “mù quáng” tiếp tục vun trồng cái tâm từ bi mà chính nó không thể bị đào luyện được. Vì cái ta muốn đào luyện đó đến từ cội gốc của “ham muốn”. Không thể vun trồng lòng từ bi nhưng chỉ khi ta không còn ham muốn gì nữa, thì từ bi xuất hiện vì mọi nguồn năng lực di chuyển vào cho từ bi bác ái. Sự chuyển động này rất khác biệt. Những ham muốn đều có động lực ở trong, có mục tiêu; từ bi không động lực nào, không có mục tiêu nào ở trong. Từ bi là thuần túy đầy tràn năng lực.
Từ bi bác ái có nghĩa là sự chuyển hoá thân và tâm. Ta không còn là một nô lệ nữa, đã trở thành một chủ nhân. Bây giờ phải hành sử một cách có tri thức. Ta không còn bị lôi cuốn, điều khiển hay bị thúc đẩy bởi những sức mạnh của vô thức; bây giờ ta hoàn toàn độc lập, tự do, Cùng cái năng lực tạo ra đam mê đã chuyển sang cho từ bi. Đam mêmê muội; từ bi là yêu thương. Đam mê là tham lam, từ bi là chia sẻ. Đam mê là ham muốn, từ là không ham muốn. Ham muốn là muốn dùng người khác như những phương tiện; từ bi tôn trọng người khác như thể tôn trọng chính mình.
Một trong những điều căn bản của từ bi bác ái là tôn trọng tất cả mọi người, làm cho mọi người biết rằng những gì đã xẩy ra cho ta cũng có thể xẩy ra cho họ; rằng không ai là tuyệt vọng, không ai là vô dụng; rằng giác ngộ không phải là phần thưởng, mà là tự chứng của mỗi cá nhân.
Nhưng những lời nói này phải đến từ người đã giác ngộ, chỉ có những người đã giác ngộ mới tạo đuợc niềm tin. Nếu đến từ những học giả không giác ngộ, những lời nói của họ sẽ không thể tạo được niềm tin. Lời nói, phát ra từ người đã giác ngộ, bắt đầu thành hơi thở, bắt đầu nhịp tim đập của chính lời nói đó. Nó trở nên sống động, nó đi thẳng ngay vào tim ta....và nó không phải là những trò chơi trí thức hay thể dục biểu diễn. Nhưng với một học giả, lại là chuyện rất khác hẳn. Chính học giả này cũng không biết ông ta đang nói về chuyện gì, hay viết về chuyện gì. Ông ta đang ở trong trạng thái mơ hồ cũng như ta vậy.
Đức Phật Cồ Đàm là một trong những điểm mốc về sự chuyển hoá của tri thức; sự đóng góp của Ngài lớn lao không thể lường được. Trong sự đóng góp này, tư tưởng về tâm từ bi là điều cần thiết (chính yếu) nhất. Nhưng ta phải ghi nhớ rằnglòng từ bi bạn cũng không trở thành cao cả hơn; nếu không nhớ ta sẽ làm thối nát mọi chuyện. Nó trở lại con đường vị ngã. Nhớ đừng khinh thường người khác bằng lòng từ bi, như thế là ta đang không có lòng từ bi.....sau những danh từ đó ta đang vui thích trên nỗi nhục nhã của họ.
Riêng đối với từng cá nhân, thiền định là đủ rồi. Điều vĩ đại nhất của Đức Phật là Ngài là để cập đến tâm từ bi trước khi vào thiền định. Ta nên yêu thương hơn, tử tế hơn, vị tha hơn. Có một bài học ẩn dấu trong đó. Trước khi được giác ngộ nếu tâm của ta đã tràn đầy từ bi bác ái, thì triển vọng sau lúc thiền định ta sẽ làm cho những người khác biết được cùng một vẽ đẹp, cùng một sự thanh cao. Đức Phật làm cho giác ngộ được truyền nhiễm dễ dàng. Nhưng nếu người ta quay trở về nhà thì sao còn để ý tới ai nữa? Đức Phật lần đầu tiên làm cho sự giác ngộ không ích kỷ; ngài đặt nó trách nhiệm của xã hội.
Đây là một thay đổi vĩ đại trong lịch sử nhân loại. Nhưng lòng từ bi phải được học hỏi trước khi giác ngộ, nếu không thì khi một người trở nên rất hoan lạc, lúc đó hình như ngay chính lòng từ bi lại ngăn ngừa sự vui vẻ riêng tư, tạo sự rối loạn trong sự hoan lạc của người đó. Đây là lý do tại sao đã có hàng trăm người giác ngộ, nhưng rất ít ai là bực Thầy. Giác ngộ không có nghĩa nhất thiết ta sẽ trở thành một bậc Thầy. Trở thành một bậc Thầy có nghĩa là ta phảilòng từ bi rộng bao la.
Lòng từ bi một cách căn bản có nghĩa là chấp nhận sự mảnh mai, những yếu kém của con người; không mong mỏi con người phải hành xử như những người hoàn hảo hay thần thánh. Sự mong mỏi đó là ác độc. Tâm từ bi chỉ có được với cảm thông và nhận thức. Không riêng việc hiểu biết và tôn trọng người khác, mà còn phải tìm hiểu sâu xa tận cốt lõi của chính ta nữa. Thấy được cốt lõi của chính mình, khi đó sẽ có khả năng nhìn thấu cốt lõi người khác. Lúc này người kia không còn hiện diện như một thân thể hay một khối óc mà họ xuất hiện như một “ánh sáng.” Ánh sáng không bị chia rẽ, khi hai tia sáng gặp nhau, chúng nhập vào thành một. 

Lòng từ bi bác ái là một hình thức tối thượng của tình yêu.

Achema – 2009
Kim Morris lược dịch
February 2011 – revised September 2011

No comments:

Post a Comment