Hoang Phong
Đức Thích-ca Mâu-ni là vị Phật lịch sử
và cách nay đã lâu lắm, đã khám phá ra một Con Đường thật độc đáo, đấy là Con
Đường giúp chúng ta loại bỏ mọi khổ đau và tìm thấy một sự tự do đích thật. Sau
khi khám phá ra Con Đường đó thì Đức Phật, lúc ấy còn rất trẻ, đã hy sinh phần
còn lại của kiếp nhân sinh cuối cùng của mình để trỏ cho chúng ta trông thấy
Con Đường ấy bằng ngón tay của chính Ngài. Hôm nay chúng ta là những người đang
tu tập bằng cách hướng theo ngón tay của Ngài và bước theo các vết chân của Ngài
vẫn còn in đậm trên Con Đường ấy.
Chúng ta cũng không khác gì một đoàn
người cùng bước đi trên Con Đường, một đoàn người vô cùng phức tạp: khác biệt
nhau về đủ mọi mặt, từ tuổi tác, sức khỏe, văn hóa đến trình độ hiểu biết... Có
những người thanh thản và yên lặng tiến bước; có những người bận rộn ngược xuôi
nhằm khuyến khích và dìu dắt người khác, thậm chí đưa cả lưng mình để cõng người
yếu đuối; lại cũng có kẻ chỉ thích đứng ở các trạm đón xe và chờ người đến rước.
Ấy là chưa nói đến các cảnh tượng chen lấn và móc túi, hoặc lường gạt và lợi dụng
nhau... Hơn nữa cũng có nhiều người không nhìn theo hướng ngón tay để tiến bước
mà chỉ lanh quanh tìm kiếm của cải của người khác đánh rơi hoặc vứt bỏ lại, để rồi
nào ôm, nào vác, nào đội lên đầu để mà vừa đi vừa vấp ngã. Không những thế, trên
đường lại cũng có những đoàn người đi ngược chiều và chúng ta phải nép sang một
bên để tránh không đâm sầm vào họ. Nhìn sang hai bên vệ đường thì chúng ta cũng
sẽ thấy nhiều cảnh tượng thật huyên náo: nào chợ búa, cửa hàng, nhà hát, sòng bài,
kể cả những cảnh lường gạt, đâm chém, bắn giết, bom nổ, nhà cháy, cầu sập..., và
cũng có một số người dừng lại để mải mê nhìn và trong lòng thì vẫn còn cứ muốn
xông vào để tham gia.
Bài viết ngắn này phác họa lại bằng một
vài nét thật đơn sơ hình ảnh của Con Đường đó với đoàn người đang lầm lũi bước đi,
hầu giúp cho mỗi người trong chúng ta nhìn thấy chính mình trên Con Đường đó để
chọn cho mình một cách tiến bước tốt đẹp nhất. Thật vậy khi còn tại thế Đức Phật
đã từng giảng dạy về Con Đường cho mọi người theo nhiều trình độ hiểu biết khác
nhau. Ngài đã giải bày cho những người nông dân chất phác, thế nhưng cũng từng
đưa lên một cánh hoa và không nói lên một lời nào cả để giảng về Con Đường ấy
cho những người khác. Sự kiện đó cho thấy tuy Con Đường luôn là một, lúc nào
cũng là một, thế nhưng lại mang nhiều sắc thái khác nhau. Vì thế mà Vị Thầy cũng
đã phải sử dụng nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau. Sau khi Ngài tịch diệt
thì Con Đường thay Ngài làm Vị Thầy để hướng dẫn chúng ta, và các đệ tử đã họp
nhau lại để cố giữ gìn cho Con Đường luôn được chỉnh trang và quang đãng. Họ quét
dọn rác rưởi, thu dọn chướng ngại và mở rộng thêm, mỗi lần như thế thì lại gọi
là một Đại Hội Kết Tập Đạo Pháp. Vì mục đích thích ứng với các trào lưu tư tưởng
và các nét đặc thù văn hóa địa phương của từng thời đại và cũng do tánh khí khác
biệt của các đệ tử sau này mà Con Đường đã có đôi chút biến dạng và cũng đã khoác
thêm cho mình một vài trang trí mới khiến quang cảnh có phần khác đi phần nào.
Ngoài những người mặc áo màu nghệ ra thì người ta còn trông thấy trên Con Đường
có cả những người mặc áo màu đen, màu lam, màu đỏ sậm, màu nâu...
Thật thế, ngay từ lần Kết Tập tổ chức vào thế kỷ thứ III trước Tây Lịch,
người ta cũng đã thấy xuất hiện hai tông phái khác nhau. Sau đó đến lần Kết Tập
vào thế kỷ thứ I sau Tây lịch thì hai tông phái này đã nhân lên gấp đôi, và mỗi
tông phái lại gồm có nhiều học phái, tổng cộng là 18 học phái tất cả. Thế nhưng
hầu hết các học phái này đã mai một và chỉ còn lại một học phái tồn tại đến nay
dưới một hình thức mới gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy hay Theravada. Đồng thời cũng
vào khoảng thế kỷ thứ I, người ta cũng thấy xuất hiện trên Con Đường một một
khuynh hướng mới gọi là Đại Thừa. Đại Thừa sau đó lại chia ra thành nhiều tông
phái, học phái và chi phái khác nhau, chủ trương nhiều phép tu tập khác nhau.
Tóm lại hiện nay trên Con Đường có hai
khuynh hướng hay hai chủ trương chính yếu
là Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada và Phật Giáo Đại Thừa Mahayana. Sự
khác biệt giữa hai khuynh hướng này thuộc vào lãnh vực "thực hành"
nhiều hơn, trong khi đó thì "cứu cánh" luôn chỉ là một.
Phật giáo Nguyên Thủy còn được gọi là
Phật Giáo "Nam Tông" hay "Tiểu Thừa". Sở dĩ gọi là Nguyên
Thủy bởi vì phần giáo lý căn bản hoàn toàn được dựa vào các kinh sách gốc, tức
các kinh sách có nội dung cổ xưa và được xem là chính thống, đấy là Tam Tạng
Kinh. Tuy nhiên cũng khó biết là giữa kinh sách Nguyên Thủy và kinh sách Đại thừa
thì kinh sách nào xưa hơn, bởi vì tất cả kinh sách bằng chữ viết đều xuất hiện rất
gần nhau vào khoảng thế kỷ thứ I trước Tây Lịch.
Phật Giáo Nguyên Thủy còn được gọi là
Phật Giáo "Nam Tông" vì sau này được phát triển tại các quốc gia thuộc
vào phía đông và phía nam của bán lục địa Ấn Độ, gồm các quốc gia như Tích Lan,
Miến Điện, Thái Lan và Campuchia. Thế nhưng trên thực tế thì cách gọi đó cũng
không được chính xác lắm, bởi vì trước đây hầu hết các quốc này như Miến Điện
(Myanmar), Thái Lan và Campuchia đều theo Phật Giáo Đại Thừa và chỉ sau đó thì
mới chuyển sang Phật Giáo Nguyên Thủy do quyết định của vương quyền thời bấy giờ.
Nếu gọi Phật Giáo Nguyên Thủy là "Tiểu
Thừa" thì lại càng không đúng hơn nữa, bởi vì chữ "Tiểu Thừa" được
nêu lên trong các kinh sách Đại Thừa nhằm mục đích phân biệt với chủ trương tu
tập mới của tông phái này, bởi vì theo Đại Thừa thì việc tu tập không nhất thiết
chỉ mong cầu tìm thấy sự giác ngộ cho riêng mình còn phải giúp đỡ tất cả chúng
sinh khác tìm thấy sự giải thoát. Tóm lại nếu gọi Phật Giáo Nguyên Thủy là
"Nam Tông" hay "Tiểu Thừa" thì không được đúng lắm, và nếu như
không muốn gọi là Nguyên Thủy thì cũng có thể gọi tông phái Phật Giáo này là
Theravâda, tiếng Pa-li theravâda có
nghĩa là con đường xưa hay giáo lý xưa. Vậy tóm lại có những gì khác
biệt trên căn bản giữa hai khuynh hướng Nguyên Thủy và Đại Thừa? Sự khác biệt
thứ nhất thuộc lãnh vực kinh sách, sự khác biệt thứ hai là phép tu tập của Đại
Thừa rộng hơn và có phần nhập thế hơn.
Giáo lý căn bản của Phật Giáo Nguyên
Thủy được quy định bởi các kinh sách xưa hay chính thống gọi là Tam Tạng Kinh,
trong khi đó thì kinh sách của Đại Thừa gồm chung cả Tam Tạng Kinh và cả các
kinh sách "xuất hiện muộn", tức là các kinh sách được trước tác từ thế
kỷ thứ I trước Tây lịch đến các thế kỷ thứ V và thứ VI, kể cả các kinh sách
tan-tra xuất hiện muộn hơn nữa tức vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thứ X. Tuy
nhiên tất cả các tông phái đều cho rằng kinh sách thuộc tông phái của mình đều
xuất phát từ thời kỳ của Đức Phật lịch sử, bằng cách viện dẫn là Đức Phật thuyết
giảng theo nhiều trình độ khác nhau nhằm vào các đối tác khác nhau, các kinh sách
liên hệ được cất dấu để tránh khỏi bị mất mát vì chiến tranh và cướp phá và chỉ
được tìm thấy khi cơ duyên hội đủ. Thật thế việc khám phá kinh sách dấu kín thường
xảy ra trong quá khứ ở Tây Tạng.
Tóm lại Phật Giáo Nguyên Thủy và Phật
Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác
nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay
hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
Trên phương diện áp dụng thì Phật Giáo Nguyên Thủy đòi hỏi người tu hành phải
tách rời sự sinh hoạt của mình ra khỏi đời sống thế tục, phải tuân thủ thật nghiêm
túc giới luật, nhắc nhở mình luôn phải buông xả và hướng vào thể dạng giải
thoát của một vị A-la-hán. Trong khi đó thì Phật Giáo Đại Thừa nêu lên hình ảnh
lý tưởng của một người Bồ-tát nhất định chối bỏ sự giác ngộ tối thượng của mình
để lưu lại trong thế giới Ta-bà hầu tiếp tục giúp đỡ tất cả chúng sinh.
Nếu muốn bước vào Đại Thừa một cách vững
chắc và dễ dàng thì cũng nên có một số hành trang tối thiểu nào đó về Phật Giáo
Nguyên Thủy. Nói như thế không có nghĩa là Phật Giáo Nguyên Thủy chỉ mang tính
cách giai đoạn, mà thật ra tự nó cũng là một tông phái đầy đủ và toàn vẹn. Phật
Giáo Đại Thừa trái lại dù mang một số khía cạnh và thể dạng khá sâu sắc, thế nhưng
các phương pháp tu tập thì lại quá đa dạng. Dù sao đi nữa nếu khởi sự bước vào Con
Đường với hành trang của Phật Giáo Nguyên Thủy thì đến một lúc nào đó một sự đòi
hỏi khác cũng có thể sẽ tự nhiên phát sinh thúc đẩy người tu tập nên chọn thêm
cho mình cách hành xử của Đại thừa. Thật ra thì đấy cũng không phải là cách loại
bỏ Phật Giáo Nguyên Thủy khi đã bước được vào Đại Thừa, bởi vì sự chính xác và
tinh khiết của Phật Giáo Nguyên Thủy luôn luôn là những gì thật cần thiết cho
người tu tập. Tóm lại là Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như Đại Thừa cả hai đều bổ
khuyết cho nhau.
Thoạt nhìn thì Phật Giáo Đại Thừa vô cùng
phức tạp, đến độ một số người tu tập theo Phật Giáo Nguyên Thủy có thể cho rằng
Phật Giáo Đại Thừa đi trệch ra ngoài Con Đường. Thế nhưng trên thực tế thì các
hình thức "biến đổi" chỉ là một sự tiến hoá giúp Con Đường mở rộng thêm
vào thế giới thật đa dạng này của chúng ta và mang lại cho Phật Giáo nói chung nhiều
khía cạnh mới mẻ và sâu sắc hơn. Phật Giáo Nguyên Thủy tự cho mình là giữ đúng
theo giáo lý do Đức Phật thuyết giảng, thế nhưng thật ra thì cũng đã biến đổi
không ít theo dòng thời gian, nhằm thích ứng với các bối cảnh địa phương và các
xu hướng khác nhau. Một cách thật tổng quát thì có thể xem Phật Giáo Nguyên Thủy
mang ít nhiều tính cách "chính thống" khá gò bó và luôn quan tâm giữ đúng
theo những gì được ghi chép trong các kinh sách xưa, trong khi đó thì Phật Giáo
Đại Thừa mang nhiều khía cạnh "cởi mở" và mang ít nhiều khía cạnh "nhập
thế" hơn. Vậy Phật Giáo Đại Đại Thừa thật sự là gì?
Nếu Phật Giáo Nguyên Thủy chủ trương hình
ảnh tinh khiết của một vị A-la-hán thì Phật giáo Đại Thừa đề cao trọng trách của
một vị Bồ-tát. Trên Con Đường, nếu tu tập theo Phật Giáo Nguyên Thủy thì cứ nhìn
vào vị A-la-hán trước mặt mà bước theo, nếu tu tập theo Đại Thừa thì sẽ cùng sánh
vai với người Bồ-tát để hành động như một người Bồ-tát. Hơn nữa ngoài hình ảnh
lý tưởng của người Bồ-tát ra thì Phật giáo Đại Thừa còn kết nạp thêm đủ mọi thứ
thần linh địa phương, hiền hoà cũng có mà hung tợn cũng có, và đồng thời vô số
các vị Phật cũng xuất hiện thêm. Do đó Con Đường đối với Đại Thừa cũng trở nên đông
đảo và vui nhộn hơn. Phật Giáo Đại Thừa gồm có ba tông phái hay ba học phái lớn
và chính yếu là Tịnh Độ, Thiền học và Kim Cương Thừa.
Thuở xưa tại Ấn Độ có một vị vua giàu
có và rất thông minh xuất gia mang pháp danh là Dharmakara và nguyện rằng sau khi
thành Phật thì nếu có bất cứ chúng sinh nào thành tâm cầu khẩn thì Ngài sẽ tiếp
dẫn vào cõi Cực Lạc. Sau nhiều kiếp tu tập thì vị này đạt được sự giải thoát toàn
vẹn và trở thành một vị Phật mang tên là A-di-đà, hội đủ khả năng tiếp dẫn chúng
sinh đúng như lời nguyện ước trước đây của Ngài. Nếu chúng sinh nào muốn được
tiếp dẫn về cõi Cực Lạc sau khi chết thì phải thành tâm kêu gọi đến lòng từ tâm
của Ngài. Đấy là "pháp môn" Tịnh Độ. Thế nhưng cũng cần phải hiểu là
Đức Phật A-di-đà còn nguyện rằng "Cho đến khi nào vẫn còn một chúng sinh chưa
được giải thoát thì mình vẫn chưa nhập vào cõi Cực Lạc", và đấy là những gì
cho thấy một cấp bậc cao hơn của Tịnh Độ, tức là sự liên kết chặt chẽ giữa lòng
Từ Bi và sự Giác Ngộ.
Căn bản giáo lý của Tịnh Độ được căn cứ
vào ba tập kinh là Vô Lượng Thọ Kinh,
A-di-đà Kinh và Quán Vô Lượng Thọ Kinh. Pháp môn Tịnh Độ chỉ chú trọng đến đức tin
và sự cầu khẩn do đó thường được xem là một phép tu tương đối "dễ dàng".
Dầu sao đi nữa thì phép tu này cũng cho thấy một số trở ngại nào đó không thuận
lợi lắm cho việc tìm hiểu sâu xa giáo lý của Đức Phật lịch sử là Đức Thích-ca Mâu-ni.
Thiền Tông hay Thiền Học còn gọi là Zen hay T'chan. Thiền tông được một vị thầy người Ấn là Bồ-đề Đạt-ma hệ thống
hóa tại Trung Quốc vào thế kỷ thứ VI. Thế nhưng người ta thường có khuynh hướng
xem Thiền Tông phát xuất từ giai thoại gọi là "niêm hoa vi tiếu" (cầm
hoa mỉm cười) từ thời kỳ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni còn tại thế. Trong một buổi thuyết
giảng, Đức Phật cầm một cành hoa đưa lên nhưng không nói một lời nào, đại chúng
ngơ ngác, chỉ có một người đệ tử là Ma-ha Ca-diếp mặt bỗng bừng sáng và mỉm cười.
Sự yên lặng của Đức Phật và nụ cười của Ma-ha Ca-diếp biểu trưng cho sự quán nhận
hiện thực một cách trực tiếp, vượt khỏi tính cách quy ước và nhị nguyên của ngôn
từ. Do đó người ta xem Ma-ha Ca-diếp là vị Tổ thứ nhất của Thiền Tông Ấn Độ và
Bồ-đề Đạt-ma là vị Tổ thứ 28 mang Thiền Tông vào Trung Quốc.
Thiền Tông có thể xem như một phép tu bằng
"đường tắt", và nếu đã gọi là "đường tắt" thì tất nhiên cũng
có nghĩa là một con đường "ngắn" và "khó", và đương nhiên đấy
cũng là những gì ngược hẳn lại với con đường của Tịnh Độ trên đây. Kinh sách đặc
thù của Thiền học gần như không có gì ngoài một bộ kinh của Đại Thừa nói chung rất
gần với quan điểm Thiền Tông là bộ Nhập
Lăng Già Kinh, và một số các tập sách khác ghi chép các "công án".
Công án là các câu phát biểu hay các mẫu chuyện ngắn mang tính cách "bất
ngờ", "phi lý" hoặc có thể là các câu trả lời "ngớ ngẩn"
hay "lạc đề" nhằm mục đích giúp người tu tập phá bỏ các ngõ ngách của
tư duy, vượt thoát khỏi mọi sự lý luận căn cứ vào các thứ hiểu biết bằng quy ước
và khái niệm, hầu giúp cho người hành thiền tiếp cận trực tiếp với bản chất đích
thật của mọi hiện tượng. Sự quán thấy trực tiếp hiện thực ấy chính là sự Giác
Ngộ.
Học phái thứ ba của Đại Thừa là Kim Cương
Thừa còn được gọi là Phật Giáo Tan-tra, một thừa Phật Giáo rất toàn vẹn, bao gồm
toàn bộ căn bản giáo lý của Phật Giáo nói chung từ Tam Tạng Kinh đến các kinh sách
Đại Thừa và quan trọng nhất là các kinh sách tan-tra. Người ta thường hiểu sai và
cho rằng Kim Cương Thừa là Phật Giáo của xứ Tây Tạng. Thật ra thì đấy là một tông
phái rất lớn, chính thức được hình thành và được hệ thống hóa một cách chặt chẽ
tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VIII, và sau đó thì được đưa vào các nước thuộc
phía bắc Ấn Độ như Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Nhật Bản..., và đồng thời bành
trướng sang các quốc gia khác về phương nam như Miến Điện, Thái Lan, Campuchia,
Nam Dương (Indônêxia)..., trước khi các quốc gia này chuyển sang Phật Giáo Nguyên
Thủy. Bằng chứng cụ thể về sự hiện diện của Kim Cương Thừa trong toàn vùng này là
di tích đồ sộ của Phật Giáo tan-tra tại cựu kinh đô Pagan của Miến Điện và ngôi
đền Phật Giáo tan-tra lớn nhất thế giới là Borobudur tại đảo Java của Nam Dương.
Tan-tra có nghĩa là "những gì che
chở cho tâm thức" tức là giữ cho tâm thức vững vàng không bị các thứ xúc cảm
bấn loạn, hoang mang làm cho nó bị phân tán. Những gì khác biệt giữa Tan-tra Thừa
và các tông phái khác chính là phép tu tập độc đáo của tông phái này: đấy là
cách lợi dụng tất cả các sức mạnh của xung năng trong tâm thức để biến chúng trở
thành những sức mạnh tu tập hướng vào sự giác ngộ. Thí dụ một gốc cây cho ra những
quả đắng và độc hại, thì đối với các tông phái Phật Giáo khác thì phải nhổ bỏ tận
gốc, chặt bỏ tận rễ khiến cho nó không còn mọc lại được nữa, thế nhưng đối với
Tan-tra Thừa thì người tu tập phải "nuốt" những quả độc đó để chuyển
nó thành nguồn sinh lực tinh túy và cực mạnh để giúp mình hướng vào đường tu tập.
Tóm lại đấy có nghĩa là chuyển tất cả sức mạnh của mọi thứ xúc cảm, kể cả những
thứ xúc cảm bấn loạn nhất, thành ra sức mạnh của sự hăng say và trí tuệ. Hơn nữa
phép tập luyện tan-tra còn dựa vào nhiều biểu tượng và nghi lễ thật phức tạp (mạn-đà-la,
các câu man-tra, v.v.) do đó tu tập Tan-tra hay Kim Cương Thừa phải cần đến sự
chỉ dẫn và giúp sức của các vị thầy đầy đủ khả năng.
Trên đây là một vài nét phác họa về Con
Đường. Phật Giáo Nguyên Thủy tượng trưng cho những bước đi thật chủ yếu và vững
chắc, do đó rất tinh khiết. Tịnh Độ chủ trương những bước đi "nhẹ
nhàng", vì thế cũng có thể sẽ phải cần đến một thời gian khá lâu dài để có
thể nhìn thấy mức đến ở cuối Con Đường. Thiền Tông là một chủ trương ngược lại
và được xem là khá "khó", phải chủ động được sự vận hành của tâm thức
và quán nhận trực tiếp được hiện thực, và do đó cũng có thể đòi hỏi người tu tập
cần phải có một vài khía cạnh đặc biệt nào đó phù hợp với phép tu tập này. Sau
hết thì Kim Cương Thừa tỏ ra toàn vẹn và tích cực hơn cả, thế nhưng rất phức tạp
và đa dạng, cần phải có một lòng quyết tâm khác thường và sự hướng dẫn của một
vị thầy đầy đủ khả năng.
Trên Con Đường đó lúc nào cũng có những
người tu tập vừa đi vừa ngoảnh lại, hoặc vẫn còn thích ngắm nhìn những cảnh tượng
đủ loại ở hai bên đường. Có những người khập khễnh phải nương tựa vào nhau mà đi,
có những người ngồi xuống để băng bó vết thương cho những người vấp ngã, và cũng
có những người đi rất nhanh. Dù sao thì tất cả mọi người trên Con Đường đều có
thể bước vào giai đoạn cuối cùng vào một ngày nào đó. Vậy cái giai đoạn cuối cùng
ấy sẽ như thế nào?
Càng tiến bước thì Con Đường có vẻ ngày
càng trở nên rộng hơn, thênh thang và chan hòa ánh sáng. Thế rồi vào một lúc nào
đó, bất chợt người lữ hành sẽ cảm thấy Con Đường biến đổi hẳn đi, tất cả các điểm
chuẩn để định hướng hình như đều tan biến hết không còn xác định được đâu là phía
trước, phía sau, bên phải, bên trái, bên trên, bên dưới..., vì thế dù có muốn thì
người lữ hành cũng không còn bước thêm được một bước nào nữa, và cũng không thể
thụt lùi lại được nữa. Người ấy có cảm giác hình như không gian, thời gian, Con
Đường và cả chính mình đã trở thành một.
Dù có dùng tâm thức để "quay nhìn
lại phía sau" thì người ấy cũng sẽ chẳng thấy "Con Đường" ở đâu
cả. Các tông phái trước đây như Nguyên Thủy, Tịnh Độ, Thiền Tông, Tan-tra... cũng
biến mất, hay ít ra cũng không còn đủ sức thu hút nữa, tương tự như các trò chơi
bắn bi, đánh đáo hay nhảy dây mà người ấy từng say mê ngày còn nhỏ. Tất cả các hiện
tượng đều tan biến không còn tạo ra một sự tương tác nào nữa, các nút thắt của quy
luật tương liên đều được tháo gỡ, hiện tượng vô thường và quy luật nguyên nhân
và hậu quả không còn gây ra một tác động nào. Sự kiện ấy cho thấy là người lữ hành
đang đặt chân lên bước cuối cùng trên Con Đường. Sau cái bước ấy thì chẳng có gì
để mà sinh ra và cũng chẳng có gì để mà hủy hoại, tất cả đều dừng lại và đình
chỉ. Câu chuyện một cuộc phiêu lưu cũng chấm dứt ở đấy.
Bures-Sur-Yvette,
24.01.12
Hoang Phong
Cám ơn tác giả Hoàng Phong. Bài viết thật hay, thật hàm súc và rất dễ hiểu. Chỉ xin góp một ý nhỏ :
ReplyDeleteTrích : «Phật Giáo Đại Thừa nêu lên hình ảnh lý tưởng của một người Bồ-tát nhất định chối bỏ sự giác ngộ tối thượng của mình để lưu lại trong thế giới Ta-bà hầu tiếp tục giúp đỡ tất cả chúng sinh.»
Theo thiển ý, một vị Bồ tát mà chưa đạt được «sự giác ngộ tối thượng» ắt là bản thân chưa giải thoát, chưa thành một vị Bồ tát, thì làm sao mà « giúp đỡ tất cả chúng sinh » được ? Con Đường của Phật đưa đến cứu cánh cuối cùng là sự giác ngộ tối thượng. Một người «nhất định chối bỏ sự giác ngộ tối thượng» thì đi theo Con Đường đó làm gì ? Làm sao thành một vị Bồ tát được ? Có lẽ nên được hiểu rằng, Bồ tát là một vị tu hành đã đạt được «sự giác ngộ tối thượng» nhưng vì lòng tư bi đã lưu lại thế gian để giúp đỡ chúng sinh cùng giải thoát, theo như hạnh nguyện của đức Phật A Di Đà. Chính Phật Thích Ca, sau khi giác ngộ dưới cội cây Bồ đề đã có ý muốn « vào cõi cực lạc », nhưng vì thương xót chúng sinh vô minh mà Ngài đã lưu lại thế gian để từ đó chúng ta có một Con Đường để theo đó mà tu tập.