Người ta dùng ngôn ngữ để truyền thông tư tưởng, nhưng chính nó
đôi khi lại xuyên tạc (bóp méo) sự thật.
Khi chúng ta nói đến “Tình Yêu” , nhiều người diễn tả nó một cách
lưu loát, như ca ngợi...........nhưng lại không có chiều sâu, không thật tình,
chỉ là hời hợt. Ngôn ngữ nông cạn, sự thầm lặng mới là sâu đậm hơn cả.
Khi tình yêu không được diễn tả từ tận đáy lòng, nó đòi hỏi yêu
đương xác thịt. Nếu tình yêu có thể sâu đậm trong thầm lặng thì không gian và
thời gian không còn là trở ngại nữa. Tình yêu này hiện hữu ngay trong lúc đơn
độc lẻ loi nhất. Tình yêu đậm đà không cần bộc lộ bằng lời nói, bằng ngôn ngữ.
Chỉ khi thiếu tình yêu thực sự người ta mới dùng tới những lời nói hoa hoè để
ca tụng chữ “Yêu.”. Những gì thiếu sót được đền bù bằng ngôn ngữ vì hình thức
này dễ hiểu hơn. Rất nhiều sách viết về tâm lý học khuyên người ta nên diễn tả,
bộc lộ tình yêu ngay cả những lúc họ không cảm thấy tình yêu xâu đậm. Cũng
không nên tránh né tỏ tình yêu với đối tượng. Lấy thí dụ: Một người chồng buổi
chiều về đến nhà sau một ngày làm việc mệt nhọc, anh ta nên ôm hôn vợ, dù phải
đóng kịch. Và sáng hôm sau, trước khi rời nhà đi làm, anh ta cũng phải nói là
nhớ vợ cả ngày cho dù anh rất là vui mừng khi được thoát ra ngoài ngưỡng cửa .
Những sách đó nói đúng vì chúng ta sống bám vào lời nói và không
biết tình yêu thực sự là gì. Tình yêu thật ra đã biến mất trong đời sống của
chúng ta. Chúng ta chỉ sống bám vào lời nói yêu. Có thể chúng ta lạm dụng chữ
yêu quá nhiều, biến nó thành một cái lệ. Nếu có ngưòi làm cho ta một việc
tốt..., lập tức chúng ta đáp lễ bằng một lời “cám ơn” như một cái máy nói tuy
thiếu sự chân thành. Người này sẽ cảm thấy mất vui, nếu mình không nói tiếng
cám ơn dù thực sự trong lòng mình rất mang ơn người đó.
Vì không thấu hiểu chiều sâu của sự yên lặng nên ngôn ngữ được
trọng dụng. Trong giai đoạn tân tiến, ngôn ngữ trở thành rất quan trọng vì ta
chỉ sống bằng ngôn ngữ. Nên nhớ là khi ta thực sự yêu ai, yêu tột bực, ta không
thể nói lên lời, không tìm được ra chữ để diễn tả. Hẳn có ai trong chúng ta đã
từng có kinh nghiệm về sự rung động này. Hai người yêu nhau thắm thiết, khi
chuẩn bị cho cuộc hẹn hò, họ đã tập dượt trước trong tư tưởng, lập đi lập lại
những câu nói yêu đương cho nhau. Nhưng khi gặp mặt, mọi chuẩn bị tan biến một
cách lạ lùng. Họ không nói được một lời, mà chỉ biết im lặng nhìn nhau. Đây mới
chính là thương yêu thật sự. Tình yêu không diễn tả được bằng lời, mà bằng sự
im lặng. Tình yêu này tới từ tâm trong sáng nhất. Ai cũng có tình yêu này nhưng
ta không đủ kinh nghiệm để nhận thức được nó thôi. Tất cả đều từ sự im lặng mà
thành .... tình thương yêu...có người cho rằng tình yêu này là “KHÔNG”,
(Emptiness)... hay Sunyata...Nó vượt lên trên cả tâm và thân thể... và ai cũng
có khả năng thu thập tình yêu cao cả này.
Chúng ta được sinh ra trong thế giới nhị nguyên trong đó mọi vật
đều là hợp chất với những đối kháng của chính nó. Khi chúng ta nói bài Kinh này
hay, thì nó cũng có một ý khác đối ứng, một cái gì dở ở trong chính Kinh đó.
Giống như nhiều người cả tin vào Kinh Điển đến độ họ không chấp nhận những ngôn
ngữ nào khác. Khi thấy chữ “Linh Hồn” hay “Thượng đế” tư tưởng của họ thông
thường chối bỏ không chấp nhận vì những chữ đó không có trong Kinh sách. Sự
kiện này thường xảy ra trong hàng ngũ Phật Tử cũng như trong hàng ngũ tín đồ
của tôn giáo khác.
Hãy nhìn qua mối tương tự giữa hai cách dạy căn bản của Đức Phật
và Chúa Jesus. Hai vị giác ngộ này dùng phương pháp riêng để giảng dạy nhưng
nội dung chỉ là một. Cũng như nước sông chảy vào biển rộng. Các giòng sông có
đường đi khác nhau nhưng rồi đều chẩy nhập vào biển cả.
Trong Thiên chúa Giáo, ta thấy có chữ “Người phục vụ Chuá”....?
tại sao ? Có người khác cao cả hơn chúng ta. Thực ra, chữ Người Phục Vụ ám chỉ
một "tưởng ngã", và Thượng đế là một "thực ngã". Những
người thờ phụng Thượng Đế tin là không cần phải có cố gắng gì thêm ngoài sự tận
tâm và thờ phụng. Họ cho rằng chỉ cần nói hãy đến gần với Thượng đế là đủ. Chữ
“Upasana” của tiếng Sanskrit có nghĩa tuyệt đẹp, có nghĩa là ngồi bên cạnh
Thượng đế; tới sát mục tiêu của sự tôn sùng. Trong tiến trình này người phụng
thờ Thượng đế biến mất, cái “Tôi” cũng tan biến theo từng bước khi càng đến gần
hơn với Thượng đế. Không phải làm gì khác hơn nữa. Người hữu thần tin rằng cái
“Tôi” của họ gây sự chia rẽ giữa chính họ với Thượng đế. Chính cái “Tôi” là một
vịnh ngăn cách người đi tìm và đối tượng của họ. Cái “Tôi” càng lớn khoảng cách
càng xa. Cái “Tôi” là thước đo khoảng cách giữa người đi tìm và Thượng đế. Cho
tới khi cái “Tôi” loãng ra và tan biến dần thì con người mới tiến đến gần với
Thượng đế hơn. Rồi đến một ngày nào đó cái “Tôi” hoàn toàn biến mất, người đi
tìm không còn nữa chính lúc này họ hòa nhập và thành Thượng đế .
Cho dẫu phương cách thực hành khác với Phật tử ngành Nguyên Thuỷ,
nhưng căn bản vẫn là một: Vô Ngã...nằm trong Phật tính tự nhiên. Giống như viên
nước đá tan thành nước, nước bốc thành hơi và hơi tan biến vào không khí. Viên
nước đá có phải tự cố gắng để tan thành nước không? Nếu nó cố gắng cho lắm, nó
lại càng cứng như đá thật lạnh. Sự ép buộc chỉ làm cho viên nước đá rắn chắc
hơn, lâu tan hơn. Vì vậy, khi một người đi tìm đạo mà càng trói buộc vào kỷ
luật, cái ngã của họ càng trở nên mạnh mẽ, càng cứng rắn, càng kết hợp lại vững
vàng hơn. Họ sẽ ngả về hữu ngã thay vì vô ngã. Tình trạng này xẩy ra cho bất cứ
ai đã thực hành lâu dài trong khuôn khổ đạo đức quá đáng. Họ nhầm tưởng họ là
người tốt rồi đấy. Cái “Ngã” của họ quá cao đến nỗi họ không thể ngồi gần hay
ngồi cùng bàn ăn với ai khác như một người thường. Nhìn chung quanh ta thấy
những vị tăng sĩ nổi tiếng có được một đời sống bình dị hay không? Đời sống của
họ trở thành giống như của một minh tinh điện ảnh.
Thượng đế và Phật.... những danh từ này đánh vần hoàn toàn khác
nhau. Những danh từ này đôi khi tạo rất nhiều trở ngại cho chúng ta. Cùng một
danh từ, dù phát xuất từ miệng của Phật, hay từ miệng của chúng ta, cái nghĩa
của danh từ đó thay đổi từ cửa miệng này sang cửa miệng kia. , Phật giảng chữ
Thượng đế theo một nghĩa khác trong thời của ngài. Và Chúa Jesus lại giảng theo
một nghĩa khác vào thời của Chúa. Cùng một chữ lấy ra từ tự điển, ý nghĩa của
chữ đó lại thay đổi theo người xử dụng nó.
Ý nghĩa của một từ thường được tin tưởng là có ghi trong từ điển.
Người không có cá tính tin vào từ điển. Người có cá tính dùng từ đó với ý nghiã
khác hơn theo tư tưởng riêng của họ. Các bậc giác ngộ không bao giờ bị trói
buộc vào ngôn từ.
Khi đã tìm được Sự Thật tối thượng, ta không thể thông báo ra bằng
ngôn ngữ được ..... vì những thông báo đó đưa ta vào với nguyên lý của nhị
nguyên. Con người không có một danh từ nào chỉ có một nghĩa độc nhất. Tất cả
mọi danh từ đều có nghĩa nhị nguyên (hai mặt). Nêu ra bất cứ một danh từ nào là
ta đã chia nó ra hai chiều hướng.
Sau khi “ Cái Tôi” hay “ Cái Ngã” biến mất, cái gì còn lại không
thể diễn tả bằng danh từ được... nó vô danh...Bất cứ dùng tên nào đặt cho nó
như: Niết bàn, Thượng Đế, Quang Minh v.v...đều mang người khác vào chỗ lầm lẫn.
Vì những từ ngữ này chỉ là biểu tượng, là cử chỉ và ám hiệu. Ngôn từ hoàn toàn
không có cách gì mang người ta lên đến vị thế thu nhận toàn hảo được. Nếu có
người hỏi một vị thiền sư đã thành đạt tại sao suốt 30 năm qua ngài chỉ lặng
thinh ? Sau 30 năm im lặng... câu nói đầu tiên của vị đó là: “Cái gì nói ra
được là cái không đáng để nói. Cái đáng nói thì lại không thể diễn tả được. Cho
nên chỉ có một cách độc nhất là lặng im.” Những vị đại giác ngộ tuy biết giới hạn
của ngôn ngữ nhưng vẫn tiếp tục dùng ngôn ngữ để truyền thông tư tưởng, không
phải là họ thích tự sỉ nhục, mà ngược lại chỉ vì chữ “Yêu thương” từ tận đáy
lòng của họ.
Người nào cố dùng ngôn ngữ để diễn tả Sự Thật thì ngôn ngữ đó đột
nhiên trở thành mập mờ. Không thể quả quyết được, vì phải dùng cả hai nghĩa xác
định và phủ nhận song hành. Hoặc phải chấp nhận hay chối bỏ cùng một lúc cả hai
nghĩa trắng và đen. Điều này làm cho những lời thông báo thành vô lý, không
vững chắc.
Luồng ánh sáng phóng qua lăng kính, khi ra nó chia thành 7 màu
khác nhau. Lăng kính của ngôn ngữ chia Sự Thật ra làm hai phần. Và khi mà Sự
Thật bị chia đôi, nó trở thành giả dối. Đây là lý do vì sao các nhà hiền triết
đã giữ im lặng. Họ chỉ nhẩy muá, ca hát, thổi sáo, làm dấu hiệu, nhưng không
nói một lời nào. Họ diễn tả Sự Thật bằng điệu bộ, bằng các vũ điệu, bằng tiếng
cười. Họ giơ tay lên trời hay thiên đường để cho biết Sự Thật như thế nào. Họ
nói trong sự lặng im, nói với hết khả năng của họ. Nhưng không dùng ngôn từ nào
cả.
Achema – Malaysia 2009
No comments:
Post a Comment