Lôgic
học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm
kiếm sự thực. Sở dĩ phải vay mượn từ "lôgic" (tiếng La tinh là logica,
tiếng Hy Lạp là logos) trong ngôn ngữ Tây phương vì trong tiếng Việt cũng như tiếng
Hán không có từ nào tương đương. Tuy nhiên cũng có nhiều học giả đề nghị dịch
lôgic học là "nhân minh học" hay "luận lý học", nhưng thật
ra thì các từ ấy không phản ảnh trung thực được ý nghĩa của từ lôgic.
Thật
vậy phải công nhận là trong nền tư tưởng của nhân loại không có nhiều hệ thống
lôgic đúng với nghĩa của nó. Tại phương Đông, Phật giáo đưa ra một hệ thống biện
luận vô cùng đặc thù và độc đáo và đã ảnh hưởng rất sâu đậm trong nền tư tưởng
Á châu. Khổng giáo chỉ là một nền triết học đạo đức, Lão giáo có thể xem là một
nền triết học siêu hình, nhưng cả hai không đưa ra được một nguyên tắc lôgic
nào cả. Các tôn giáo của Ấn độ như Vệ-đà, Bà-la-môn, Ấn giáo chỉ dựa vào nghi lễ
hiến dâng và cầu xin hơn là đưa ra một hệ thống suy luận để tìm hiểu sự thực. Để
đối đầu với lôgic học của Phật giáo, các trào lưu tư tưởng triết học Ấn độ cũng
có đề nghị một số luận lý lôgic nhưng hoàn toàn không vững chắc.
Tại phương Tây thì nguyên lý lôgic của
Aristote (Aristotle, Aristotélès) đã bao trùm toàn bộ nền tư tưởng của thế giới
Tây phương từ thời cổ đại cho đến nay ngoại trừ các trào lưu tín ngưỡng độc thần,
vì các nền tín ngưỡng này không hàm chứa một nguyên tắc lôgic nào cả. Vì
thế có thể nói rằng nền tư tưởng Tây phương và các trào lưu tín ngưỡng đã phát
triển song hành và đối nghịch nhau từ thời trung cổ mà hậu quả mang lại là tình
trạng xã hội Tây phương ngày nay.
Tóm lại nhân loại có hai hệ thống lôgic
chính yếu và quan trọng nhất : một của Đức Phật và một của Aristote. Bài viết
ngắn dưới đây trước hết sẽ trình bày vài hàng sơ lược về lôgic của Aristote nhằm
mục đích giúp người đọc so sánh và tìm hiểu dễ dàng hơn lôgic của Phật giáo. Riêng
phần lôgic của Phật giáo thì sẽ được trình bày cặn kẽ hơn.
Sơ lược về
Lôgic học Aristote
Lôgic là một khoa học tìm kiếm sự thực
bằng lý luận, tuy nhiên lôgic cũng có nghĩa là sự mạch lạc của ý nghĩ và lời nói,
hay là một chuỗi sự kiện xảy ra tiếp nối nhau một cách hợp lý. Như đã nói qua
trên đây, lôgic của triết gia cổ đại Hy lạp là Aristote (-384 - 322, trước Tây
lịch tức là sinh sau Đức Phật khoảng 180 năm) đã ảnh hưởng sâu đậm vào toàn thể
nền tư tưởng Tây phương, từ các triết gia như Alexandre d'Aphrodise (thế kỷ thứ
II) đồng thời với đại sư Long Thụ, thánh Thomas d'Aquin (1224 - 1274) thời
Trung cổ đồng thời với Thiền sư Đạo Nguyên, cho đến các triết gia hiện đại như
Martin Heiddeger (1889 - 1976),...và kể cả Karl Marx (1818 - 1883) đối với các
quan niệm của ông về những giá trị vật chất.
Trên một bình diện thật tổng quát thì
Aristote chủ trương khái niệm cho rằng sự "hiện hữu" là một "thực
thể" (một chất liệu), và siêu hình học chỉ là "khoa học của sự hiện hữu
với tư cách là một sự hiện hữu" mà thôi. Nguyên tắc căn bản trong lôgic của
Aristote là: " không có một vật thể nào
trong cùng một lúc lại vừa có và lại vừa không có một thuộc tính chung "
:
- Cái gì có, thì có; cái gì không, thì không.
- Bất cứ một vật gì cũng thế, có hoặc là không có; không
có cách thứ ba nào khác.
Tóm lại đối với Aristote, sự suy diễn là cách rút tỉa từ một hay nhiều
định đề (mệnh đề) đã được biết trước là đúng hay là sai (gọi chung là tiền đề)
để mang lại một hay nhiều định đề hay mệnh đề mới được đánh giá là đúng hay là
sai tùy theo sự tương quan lôgic của chúng đối với các tiền đề đã được đưa ra từ
trước. Nguyên tắc này được cụ thể hoá
bằng sự suy diễn gọi là tam đoạn luận.
Tam đoạn luận là cách đưa ra hai mệnh
đề mang tính cách dứt khoát và khẳng định và mệnh đề thứ ba dùng làm kết luận. Aristote
trình bày về tam đoạn luận như sau: "Nếu a được xác định bởi b, và
c được xác định bởi b, thì nhất thiết a phải được xác định bởi c".
Người ta có thể gọi a (thuộc tính chỉ
định cho kết luận) là mệnh đề chính, và c
(chủ thể của kết luận) là mệnh đề thứ yếu.
Sau đây là một thí dụ điển hình về tam
đoạn luận thường thấy:
Tất cả mọi người đều
chết
|
Tất cả b (người) là a (chết)
|
Mệnh đề chính
|
Tất cả những người Hy
lạp đều là người
|
Tất cả c (Hy lạp) là b (người)
|
Mệnh đề thứ yếu
|
Tất cả những người Hy
lạp đều chết
|
Tất cả c (Hy lạp) là a (chết)
|
Kết luận
|
Tóm lại lôgic của Aristote mang tính
cách khẳng định (có hay là không có, đúng hay là sai, không chấp nhận sự
"lưng chừng"). Tuy nhiên một số học phái lôgic ngày nay đã bác bỏ
nguyên tắc này, vì theo các học phái ấy thì không nhất thiết chỉ có hai trường
hợp khẳng định như thế mà còn có một trường hợp thứ ba thuộc vào loại "không quyết đoán được"
(indécidable), có nghĩa không rõ ràng, không dứt khoát, không xác định rõ được.
Lôgic của Aristote có vẻ rất phù hợp
với sự cảm nhận của con người trước mọi hiện tượng và có thể đã chi phối sự nhận
thức nói chung của con người từ phương Tây cho đến phương Đông. Tuy nhiên Phật
giáo đã đưa ra một phương pháp lý luận ngược chiều với quá trình khẳng định của
Aristote, chẳng hạn như trường hợp điển
hình sau đây:
Con ông A
biết nói tiếng Anh
Con
ông A không biết nói tiếng Anh
Ông A là người không có
con
Trong trường hợp trên đây, mệnh đề
thứ ba phủ nhận hoàn toàn hai mệnh đề trước, và mục đích của sự phủ nhận đó là
tạo ra một sự phi lý để hóa giải trở lại mọi sự khẳng định. Trong kinh sách Phật
giáo người ta thường thấy thí dụ về "đứa con của một người phụ nữ hiếm muộn"
(tức không hề sinh đẻ).
Lôgic học Phật
giáo
Lôgic học Phật giáo được hình thành
trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực
tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn, do đó không nhất thiết
phải có cùng những quy tắc mà Aristote đã đưa ra. Logic học Phật giáo không phải
là một ngành học riêng biệt mà có thể gọi đấy là những kỹ thuật hay những ứng dụng
trực tiếp góp phần vào sự tu tập. Những kỹ thuật hay ứng dụng ấy là gì? Mục đích
trước hết là để chứng minh một số khái niệm trong Đạo Pháp, sau đó là để tìm hiểu
bản thể đích thực của thế giới này. Đối với Phật giáo, thế giới mà chúng ta đang
sống vừa "thật" một cách cụ thể, tức có thể nhìn thấy nó, sờ mó được
nó và va chạm vào nó, nhưng thế giới đó cũng vừa "không thật" vì tất
cả mọi hiện tượng kể cả tư duy của con người chỉ "thật" một cách tương
đối mà thôi vì chúng biến động không ngừng, tức "hiện ra" và "biến
đi" liên tục giống như những "ảo giác". Do đó Phật giáo chủ trương
thế giới hiện tượng hàm chứa hai sự thực khác nhau: sự thực tương đối và sự thực tuyệt đối. Lôgic của Phật giáo được căn
cứ và xây dựng trên cả hai sự thực ấy vì thế nên hoàn toàn khác biệt với lôgic
của Aristote.
Nếu lôgic Aristote hướng vào việc tìm
kiếm sự thực thì mục đích của lôgic Phật giáo là giúp cho con người tránh khỏi được mọi
sai lầm và ảo giác. Để thực hiện
mục đích đó Phật giáo đã đưa ra một kỹ thuật giúp chúng ta nhìn thấy phía sau sự
biến động của mọi hiện tượng còn có một thứ gì khác nữa, đó là bản chất tối hậu
của hiện thức, cái bản chất tối hậu ấy Phật giáo gọi là Tánh không. Sự quán thấy
bản chất tối hậu ấy sẽ giúp chúng ta tránh được mọi sai lầm và ảo giác. Vậy kỹ
thuật ấy là gì ? Đó là một phương pháp biện luận thật đặc thù gọi là tứ đoạn luận (trétralème) tiếng Phạn là catuscoti.
Vậy tứ đoạn luận là gì?
Tứ đoạn luận
trong Phật giáo
Xin trích dẫn một đoạn trong Trung Bộ Kinh (Najjhima Nikaya, kinh số 72) như sau: "Như Lai [...] thật sâu thẳm, vô biên, không thăm dò được, giống như đại
dương. Những lời lẽ như hiển-hiện, không-hiển-hiện, hiển-hiện và không-hiển-hiện,
không-hiển-hiện cũng không phải là không-hiển-hiện, không thể dùng để diễn tả
được". Câu phát biểu trên đây của Đức Phật cho thấy nguyên tắc căn bản
của tứ đoạn luận, nguyên tắc đó gồm có bốn mệnh đề thoát ra khỏi sự biện luận
thông thường. Trong các kinh điển đặc thù của Nam tông bằng tiếng Pali người ta
cũng thấy nêu lên nguyên tắc của tứ đoạn luận như sau :
"Có (ati)
Không
có (neti)
Có và không có
(ati ca natica)
Không phải có cũng không phải không có (nevati na neti):
Đấy là những lời giáo huấn của Đấng Giác ngộ"
Theo
học giả Quentin Ludwig trong quyển sách về Phật giáo của ông (tựa đề Le Bouddhisme, histoire, courant religieux,
cultures, nhà xuất bản Eyrolles, 2005, trang 344) thì Aristote và cả thầy của
ông là Platon (- 428 - 347 trước Tây lịch) đều biết đến tứ đoạn luận do Đức Phật
thuyết giảng. Tuy nhiên cũng theo học giả này thì tứ đoạn luận Phật giáo đã làm
cho họ phải bực bội và không quyết đoán gì được, vì phép biện luận của Phật giáo
mang lại một tình trạng bất định hướng, không giải quyết được, không kết luận
được. Lý do cũng dễ hiểu vì các triết gia cổ đại Hy Lạp chỉ thấy có một sự thực
tương đối mà thôi và họ chỉ muốn đi tìm một sự khẳng định nào đó, một thứ lôgic
duy nhất nào đó. Trong khi ấy thì Phật giáo lại bác bỏ mọi sư khẳng định quy ước
và một thứ lôgic công thức và cứng nhắc.
Aristote
trong quyển "Siêu hình học" (Métaphysique) đã viết như sau : "Vả lại, thật rõ ràng là biện luận với một đối
thủ như thế (tức
là tứ đoạn luận) thật không thấy một đối tượng nào cả (đúng thật như thế vì tứ đoạn luận của
Phật giáo là dùng để chứng minh tính cách vô thực thể của mọi hiện tượng). Bởi vì nó không
nói lên một điều gì cả, nó không nói là thế này cũng không nói là không phải thế
này, nhưng lại nói là thế này và không phải là thế này. Và lại thêm một lần nữa,
cả hai mệnh đề ấy liên kết với nhau cũng bị phủ nhận nốt, và lại còn nói thêm vừa
không phải thế này mà cũng vừa không không-phải-thế-này. Bởi vậy nếu khác hơn
như thế thì phải có một cái gì đó đã được xác định sẵn (đấy chính là Tánh không của mọi hiện tượng
mà Aristote không thấy và ông đã tỏ ra bối rối một cách rõ rệt). Câu trích dẫn trên đây trích từ quyển Tự điển bách khoa triết học toàn cầu của
Georges Bugault trong tiết mục giải thích về chữ Catuscoti tức là tứ đoạn luận của Phật giáo, và cũng xin lưu ý thêm
là các phần đóng trong ngoặc kép là do người viết thêm vào để giúp cho người đọc
dễ theo dõi. Mặt khác cũng có thể phần trích dẫn trên đây là một trong những bằng
chứng mà học giả Quentin Ludwig đã dựa vào đó để cho rằng Aristote (và cả thầy
của ông là Platon) đã từng biết đến giáo lý của Đức Phật (?).
Trên
một khía cạnh khác có lẽ cũng cần nêu lên là trong ngành lôgic học nói chung ngoài
tam đoạn luận của Aristote và tứ đoạn luận của Phật giáo còn có nhiều hệ thống
lôgic khác nữa, chẳng hạn như lôgic biện chứng (logique dialectique), lôgic toán
học, lôgic ngũ đoạn luận của triết học Ấn độ, v.v... Tuy nhiên những hệ thống lôgic
đó đều thuộc vào những lãnh vực ít hay nhiều cá biệt hoặc không có tầm ảnh hưởng
bao quát ngang hàng với hai hệ thống lôgic của Phật giáo và của Aristote.
Ý nghĩa của tứ đoạn luận Phật giáo
Mục
đích của tứ đoạn luận Phật giáo là đưa sự biện luận lôgic ra thoát và vượt lên
trên sự thực quy ước, có nghĩa là bước vào một thế giới mà nơi đó tất cả đều có
thể xảy ra được mà cũng không có thể xảy ra được, đó là cái thế giới của Tánh
không. Trong cái Tánh không hay sự trống không của hiện thực thì tất cả
đều "có thể" và đồng thời cũng lại vừa "không có thể". Tóm
lại hai mệnh đề thứ nhất của tứ đoạn luận thuộc vào thế giới của sự thực quy ước,
và hai mệnh đề sau thuộc vào thế giới của sự thực tối hậu của mọi hiện tượng,
vượt thoát ra khỏi mọi quy ước. Bốn mệnh đề của tứ đoạn luận là :
- mệnh
đề thứ nhất nêu lên một sự khẳng định.
- mệnh
đề thứ hai nêu lên một sự đối nghịch (phản biện) lại với mệnh đề thứ nhất.
- mệnh
đề thứ ba là một sự kết hợp giữa hai mệnh đề trên đây (có nghĩa là vừa khẳng định
lại vừa phản biện lại sự khẳng định ấy).
- mệnh
đề thứ tư là một sự hủy bỏ (hay vô hiệu hóa) cả hai mệnh đề thứ nhất và thứ
hai.
Trong kinh Aggi-Vacchagotta thuộc Trung
Bộ Kinh (Mjjhima Nikaya), nhà tu
khổ hạnh Vacchagotta có hỏi Đức Phật là sau khi tịch diệt thì Đức Phật có còn
hiện hữu hay không, và Đức Phật đã trả lời như sau: "Không thể bảo rằng Như Lai còn hiện hữu phía sau cái chết, nhưng cũng
không thể bảo rằng Như Lại không còn hiện hữu, cũng không phải là vừa hiện-hữu
và vừa không-hiện-hữu, cũng không phải là vừa không không-hiện-hữu và vừa
không-hiện-hữu". Đấy là cách mà Đức Phật đã dùng tứ đoạn luận để trả lời
cho Vacchagotta.
Thật ra thì tứ đoạn luận của lôgic Phật giáo
không trái ngược lại với lôgic thông thường, bởi vì vẫn tôn trọng nguyên tắc không-mâu-thuẫn
(non-contradictoire) tượng trưng bởi hai mệnh đề đầu tiên, và đồng thời nguyên
tắc ấy cũng tôn trọng cả lãnh vực của sự thực tuyệt đối, tuợng trưng bởi hai mệnh
đề sau cùng. Do đó lôgic Phật giáo đã phân chia sự hiểu biết thành ra hai lãnh
vực khác biệt nhau: lãnh vực thứ nhất là sự nhận thức (pratyaksa) và lãnh vực
thứ hai là sự suy diễn (anumana).
Nhận
thức là một sự "hiểu biết" thuộc tri thức trực cảm, tức là một sự cảm
nhận trực tiếp bằng trực giác khi tiếp xúc với một hiện tượng (một vật thể hay
một biến cố). Sự nhận thức đó "dừng lại" trong lãnh vực của hiện tượng
và chỉ liên quan trực tiếp đến hiện tượng mà thôi, hoàn toàn không vướng mắc vào
sự vận hành của trí tưởng tượng hay khả năng diễn đạt và phân biệt của tâm thức.
Sự suy diễn thuộc vào lãnh vực thứ hai của sự hiểu biết, có nghĩa là một sự hiểu
biết dựa vào sự tương quan giữa hai hiện tượng (hai vật thể hay hai biến cố), đó
là sự hiểu biết suy lý (connaissance discursive) liên quan với lôgic học. Nếu nói
một cách khác thì sự suy diễn là một cách lập luận bằng tam hay tứ đoạn luận trong
chủ đích mang lại một sự hiểu biết nào đó. Muốn hiểu rõ sự khác biệt giữa nhận
thức và diễn đạt ra sao thì cần phải nắm vững khái niệm về ngũ uẩn, tức là năm cấu hợp tạo ra một cá thể con người, trong số năm
uẩn đó thì bốn uẩn thuộc vào lãnh vực tâm thần và quá trình vận hành của bốn uẩn
tâm thần ấy sẽ tạo ra hai thể dạng hiểu biết trình bày trên đây.
Các
đại luận sư về triết học lôgic trong lịch sử Phật giáo
Trên dòng
lịch sử phát triển của Phật giáo có nhiều vị đại luận sư đã tích cực góp phần vào
việc diễn giải giáo lý của Đức Phật, và cũng nhờ đó mà Đạo Pháp theo dòng thời
gian mà ngày càng đã trở nên phong phú hơn. Trong số các vị ấy có Ngài Long Thụ
(thế kỷ thứ II) là vị nổi bật nhất đã sáng lập ra học thuyết Trung Đạo
(Madhyamika), một học thuyết liên quan đến sự hiểu biết lôgic của Phật giáo.
Long
Thụ điểu khiển đại học Na-lan-đà và sau đó thì giao lại trọng trách này cho người
đệ tử giỏi nhất của mình là Thánh thiên (Aryadeva) sinh vào cuối thế kỷ thứ II hay
đầu thê kỷ thứ III (?), vị này cũng là một đại luận sư rất uyên bác và đã tiếp
tục khai triển thêm học phái Trung quán. Một trong các tác phẩm quan trọng của
Thánh thiên là tập luận Bốn trăm tiết
(Catuhsataka) giải thích quan điểm của
Long Thụ về bản chất vô thực thể của mọi hiện tượng.
Sau Long
Thụ và Thánh Thiên, người ta lại thấy xuất hiện thêm vào thế kỷ thứ IV một vị đại
luận sư khác nữa về lôgic Phật giáo, đó là ngài Trần Na (Dignaga). Trần Na thụ
giáo tại đại học Na-lan-đà và là đệ tử của ngài Thế thân (Vasubandu, ~316 -
396) một đại luận sư của tông phái Duy thức, em của ngài Vô trước (Asanga) người
sáng lập ra tông phái này. Vì thế cũng dễ hiểu là tư tưởng của Trần Na nghiêng
hẳn về Duy Thức tông. Ông giảng dạy tại đại học Na-lan-đà và có công hệ thống hóa
toàn bộ lôgic học Phật giáo. Ông viết rất nhiều và đã trước tác nhiều tập luận
giải về lôgic học.
Sau
Trần Na lại xuất hiện thêm một đại luận sư khác là ngài Nguyệt Xứng
(Candrakirti), sinh vào cuối thế kỷ thứ IV. Lôgic của Nguyệt Xứng hoàn toàn là
lôgic của Trung Quán tông. Hai trước tác quan trọng của ông là quyển Minh cú luận (Prasannapada) chú giải tập Trung
quán luận tụng của Long Thụ và quyển Nhập
Trung luận (Madhyamakavatara) thì
hệ thống hóa toàn bộ học phái Cụ duyên tông (Prasangika) của Trung quán tông.
Tư tưởng
của các đại luận sư trên đây đã ảnh hưởng sâu đậm nền triết học Phật giáo suốt
nhiều thế kỷ sau đó, cho đến ngày đại học Na-lan-đà bị các đạo quân Hồi giáo đốt
phá vào cuối thế kỷ XII. Cũng xin nói thêm là nhiều trước tác của các vị trên đây
đã bị mất mát trong biến cố vừa kể, một số chỉ còn lại bản dịch bằng tiếng Hán
hoặc bằng tiếng Tây tạng. Trong suốt một thời gian dài từ Long Thụ cho đến Nguyệt
Xứng và sau đó nữa, đại học Na-lan-đà hợp tác với các vị vương công đương thời thường
xuyên tổ chức những cuộc tranh luận giữa các vị trong giáo đoàn và cả các vị thầy
khác thuộc Phật giáo và ngoài Phật giáo được mời đến từ bên ngoài. Có nhiều cuộc
tranh luận kéo dài hàng nhiều năm.
Phần
trên đây tóm lược tiểu sử của một số các vị đại luận sư nổi bật nhất của triết
học Phật giáo và đồng thời cũng nêu lên một vài nét sinh hoạt và tranh đua tại đại
học Na-lan-đà vào một trong những thời kỳ hưng thịnh và sáng chói nhất của đại
học này. Tuy nhiên bài viết này chỉ giới hạn trong việc phân tích một vài đường
nét tư tưởng của ngài Long Thụ mà thôi, vì dù sao thì các vị đại sư sau Long Thụ
tuy có nhiều nét đặc thù nhưng cũng không đi ra ngoài lôgic chung của triết học
Phật giáo.
Ngài
Long Thụ và lôgic Phật giáo
Không
có một chứng tích lịch sử nào chính xác về cuộc đời của Long Thụ, tiểu sử của ông
gần như hoàn toàn dựa vào huyền thoại. Người ta chỉ biết rằng ông sinh vào khoảng
giữa thế kỷ thứ II và mất vào khoảng giữa thế kỷ thứ III. Là người miền Nam nước
Ấn nhưng gia đình thì gốc Bà-la-môn, vì thế ông đã dùng tiếng Phạn trong việc viết
lách thay vì dùng tiếng Pali của miền Nam. Ông thụ giáo tại đại học Na-lan-đà và
sau đó thì trụ trì và điểu khiển đại học này.
Kỹ
thuật biện luận lôgic của Long Thụ là cách đảo ngược quá trình suy luận của các
trào lưu triết học về một chủ đề rất được quan tâm thời bấy giờ là bản thể học
(ontologie), đó là một ngành học tìm hiểu về sự hiện hữu của mọi sự vật và của
con người, có nghĩa là tìm cách trả lời các câu hỏi như: các vật thể có hiện hữu
hay không, con người có hàm chứa một thực tại hay không?
Đối với
Long Thụ thì tất cả những thứ ấy "không hiện-hữu, cũng không phải là không-hiện-hữu,
chúng cũng không phải vừa hiện-hữu và vừa không-hiện-hữu, cũng không phải cùng
lúc vừa là không-hiện-hữu và vừa không phải là không-hiện-hữu". Long Thụ cho
rằng xác nhận có sự hiện hữu là sai, nhưng xác nhận là không có sự hiện-hữu cũng
sai, hoặc xác nhận sự hiện-hữu và cả sự không-hiện-hữu cũng là sai, hoặc nếu xác
nhận cả hai đều là đúng thì cũng sai. Lý do là nếu muốn xác định như thế thì tất
nhiên phải lệ thuộc một cách lộ liễu hoặc kín đáo vào một cái ngã. Trong khi đó
Phật giáo lại chủ trương vô ngã, vì thế đối với Long Thụ mọi hiện tượng đều "thật",
nhưng chỉ "thật" với tư cách là những hiện tượng mà thôi, chúng giống
như một tấm màn căng ra nhưng phía sau thì không che giấu một thứ gì cả, bởi vì
bản chất của mọi hiện tượng là Tánh không.
Phương
pháp biện luận mà Long Thụ thường sử dụng là để chứng minh sự phi lý và mâu thuẫn,
và phương pháp này cũng thường được sử dụng trong toán học: thí dụ sự hiện hữu
của A nhất thiết cần phải có sự hiện hữu của B, nếu B không hiện hữu thì A cũng
sẽ không hiện hữu. Long Thụ không bao giờ chọn cho mình một vị thế cố định hay
cứng nhắc nào cả, khi có ai đặt một câu hỏi thì ông vạch cho người đó thấy tính
cách phi lý và mâu thuẫn của câu hỏi và từ đó ông phá vỡ mọi vị thế khẳng định
làm cho các thắc mắc của người hỏi và cả câu hỏi trở nên vô nghĩa.
Sau
đây là hai thí dụ điển hình trích từ quyển "Những lời khuyên dành cho vị đế vương" của ngài Long Thụ (dựa theo
bản dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Pháp của Philippe Cornu tựa là Conseils au roi, nhà xuất bản Seuil,
collection Sagesses, 2000. Tựa tiếng Phạn của tập luận này là Rayaparikatharatnavali, tựa của các bản
dịch tiếng Việt là Na-tiên Tỳ kheo kinh):
Cũng thế, ảo ảnh giống như nước
Nhưng không phải là nước, và thật ra
thì không có [nước]
Cũng thế, các cấu hợp giống như những
cái tôi [cái ngã]
Nhưng không hề có cái tôi nào cả, và
thật ra thì chúng không hiện hữu.
(tiết
54, trang 28)
Cái gì nhất thời, ngưng hiện hữu,
Vậy làm thế nào nó có thể già được?
Cái gì không phải là nhất thời, giữ
nguyên một thể dạng,
Vậy làm thế nào nó có thể già được?
(tiết 68, trang 32)
Thí dụ
thứ nhất cho thấy trong ảo giác nước cũng có thể có được, nhưng đấy không phải
là nước. Trong Tánh không thì bất cứ thứ gì cũng có thể xảy ra được, sự đối nghịch
nhị nguyên cũng có thể trở thành một hiện tượng lôgic, vì thế mà người ta vẫn
thường nói niết bàn và ta bà chỉ là hai thể dạng khác nhau của một thực thể duy
nhất. Các trường hợp như thế gọi là các trường hợp "không quyết đoán được"
(indécidable) mà Aristote đã không dự trù trong hệ thống lôgic của ông. Thí dụ
thứ hai chứng minh thật rõ ràng tính cách phi lý của ngôn từ và khái niệm thuộc
vào thế giới hiện tượng, tức là sự phi lý trong cái hữu lý thông thường của sự
thực tương đối.
Sau hết
xin trích dẫn trong phân đoạn sau đây nguyên văn một tiết trong tập Trung quán luận tụng của Long Thụ để chứng
minh cho thấy sự lẩn quẩn, phi lý và vô nghĩa của ngôn từ và phương pháp biện
luận của tứ đoạn luận.
Một
thí dụ về tứ đoạn luận của ngài Long Thụ
"[Nếu] phát
biểu rằng sự tắt nghỉ không phải là một sự không-hiện-hữu cũng không phải là một
sự hiện-hữu, thì điều ấy chỉ có thể đứng vững khi nào "một sự không-hiện-hữu"
và "một sự hiện-hữu" đã được thiết lập một cách vững chắc.
Nếu sự tắt
nghỉ không phải là một sự không-hiện-hữu mà cũng không phải là một sự hiện-hữu,
[Thì] có ai
dám nói rằng [sự tắt nghỉ] "vừa không phải là một sự không-hiện-hữu mà cũng
vừa là một sự hiện-hữu".
Rằng Đấng
Như Lai vẫn hiện hữu sau khi đã dừng lại, không có ai có thể khẳng định được điều
ấy.
Rằng Ngài
không hiện hữu? Hay cùng lúc cả hai thứ? Hoặc cái này cũng không mà cái kia
cũng không?
Không có ai
có thể khẳng định được.
Từ sự tắt
nghỉ đến sự hình thành, không có sự khác biệt,
Từ sự hình
thành đến sự tắt nghỉ, không có sự khác biệt.
Ranh giới tối
hậu của sự tắt nghỉ cũng là ranh giới tối hậu của sự hình thành,
Giữa hai
ranh giới đó, không có một khoảng cách nào cả, dù cho là tinh tế cách mấy đi nữa.
Phía bên
kia của sự tắt nghỉ, có phải là sự chấm dứt hay không,v.v.? Sự vĩnh cữu hay không,
v.v.?
Các quan điểm
cho là có một niết bàn, [thì] phía sau chữ đó là gì, phía trước chữ đó là gì?
Tất cả mọi
thực thể đều trống không, [vậy] lấy gì để quy cho sự không-chấm-dứt? và lấy gì để
quy cho sự chấm-dứt?
Không-chấm-dứt
và chấm-dứt, cũng không phải là vừa không-chấm-dứt mà cũng lại vừa có chấm-dứt,
thì sự kiện đó quy cho cái gì?
Do đâu nó
là như thế không thêm bớt, do đâu nó là cái gì khác hơn?
Do đâu nó
vĩnh-cữu? Do đâu nó không-vĩnh-cữu?
Do đâu nó vừa
vĩnh-cữu lại vừa không-vĩnh-cữu, hay là không phải cái này cũng không phải cái
kia?
Hạnh phúc
thay cho những ai mà sự bám víu đã lắng xuống, hạnh phúc thay cho sự đa dạng [của
ngôn từ và sự vật] đã lắng xuống.
Đấng Như
Lai chưa hề thuyết giảng cho bất cứ ai về bất cứ một điều giáo lý nào".
(Trích từ tập "Căn bản Trung Quán luận tụng" (tiết XXIV) của ngài Long Thụ,
phỏng theo bản dịch tiếng Pháp của Michel Angot).
Lời kết
Kinh sách có nêu lên một số câu hỏi mà Đức Phật không
trả lời một cách trực tiếp mà chỉ phân tích câu hỏi để chứng minh cho thấy là các
câu hỏi đã được đặt sai. Điển hình hơn hết là trong kinh Culamalunkya-sutta (Majjhima
Nikaya - Trung Bộ kinh, 426-432,
bản dịch sang tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna, nhà xuất bản Cerf, 1988, trang
113-117). Trong kinh này người đệ tử của Phật tên là Malunkyaputta có nêu lên một
số câu hỏi, chẳng hạn như: vũ trụ có bất diệt
hay không? Vũ trụ có biên giới hay không? Một sinh linh đã được giải thoát có
hiện hữu sau khi chết hay không, v.v... Đức Phật phân tích mỗi câu hỏi của
Malunkyaputta thành bốn mệnh đề và sau đó thì cho biết là khổ đau, già nua và cái
chết là những gì cấp bách và quan trọng hơn nhiều so với những thắc mắc của
Malunkyaputta. Các câu hỏi của Malunkyaputta được Đức Phật phân tích như sau:
1.
Vũ trụ có bất diệt hay không?
2. Vủ
trụ không bất diệt?
3. Vũ
trụ vừa bất-diệt vừa không-bất-diệt?
4. Vũ
trụ đồng thời vừa không-bất-diệt cũng vừa không phải là không-bất-diệt?
1.
Vũ trụ vô tận?
2. Vũ
trụ không vô tận?
3. Vũ
trụ đồng thời vừa vô-tận lại vừa không-vô-tận?
4. Vũ
trụ đồng thời vừa không-vô-tận nhưng cũng không phải là không-vô-tận?
1.
Một sinh linh đã đạt được giải thoát còn hiện-hữu sau khi chết?
2. Một
sinh linh đã đạt được giải thoát không-còn-hiện-hữu sau khi chết?
3. Một
sinh linh đã đạt được giải thoát vừa hiện-hữu nhưng cũng vừa không-hiện-hữu sau khi chết?
4. Một
sinh linh đã được giải thoát vừa không-hiện-hữu nhưng cũng vừa không phải là không-hiện-hữu sau khi chết?
....
Sau đây là tóm lược một câu trả lời điển
hình của Đức Phật cho Malunkyaputta: "Này
Malunkyaputta, có quan điểm theo đó Như lai còn hiện-hữu sau khi chết, có quan
điểm theo đó Như Lai không-còn-hiện-hữu sau khi chết, có quan điểm theo đó Như
Lai vừa hiện-hữu cũng vừa không-hiện-hữu sau khi chết, có quan điểm theo đó Như
Lai không-hiện-hữu nhưng cũng không phải là không-hiện-hữu sau khi chết, nhưng
trước nhất phải hiểu rằng có sinh, có già, có chết, có khổ, có than khóc, có đớn
đau, xót xa và tuyệt vọng. Ta chỉ giảng cho con về sự chấm dứt
những thứ ấy trong thế giới này, trong chính sự sống này. Vì thế, này
Malunkuyaputta, hãy giữ lấy trong tâm những gì Ta giảng, đúng như Ta đã giảng,
và những gì Ta không giảng, đúng như Ta không giảng…"
Trong câu trả lời của Đức Phật có
hai phần rõ rệt: một phần thì Đức Phật giảng nhưng một phần khác thì Đức Phật
không giảng. Phần mà Đức Phật giảng thuộc vào sự thật tương đối của thế giới này,
đó là sự thật của khổ đau, của già nua và cái chết, cái sự thật đó cấp bách hơn
đối với Malunkyaputta. Phần mà Đức Phật không giảng cho Malunkyaputta là sự thật
tuyệt đối của bản thể mọi hiện tượng trong vũ trụ này. Đức Phật chỉ nhắc cho Malunkyaputta
phải giữ trong tâm những gì mà Đức Phật không giảng đúng như Đức Phật không giảng.
Tuy không giảng nhưng Đức Phật đã phân tích các câu hỏi của Malunkyaputta thành bốn mệnh đề của tứ đoạn luận trong mục đích chứng minh cho Malunkyaputta thấy các câu hỏi ấy là phi lý, vô nghĩa và vô ích, nhưng lại không giảng cho Malunkyaputta vể Tánh không của mọi hiện tượng. Thật vậy Malunkyaputta không phải là một đệ tử có tầm cỡ của Ma-ha Ca-diếp, cái yên lặng mà Đức Phật không trả lời trọn vẹn các câu hỏi của Malunkyaputta khác với cái yên lặng khi Đức Phật cầm cành hoa đưa lên cho Ma-ha Ca-diếp xem mà không nói gì cả. Cái yên lặng đó vượt lên trên khổ đau, của già nua và cái chết, vượt ra bên ngoài biên giới của vũ trụ, vượt lên trên niết bàn và cả ta bà, cái yên lặng đó trong nhất thời Malunkyaputtra không cần biết.
Cái yên lặng ấy chính là Tánh không của mọi hiện tượng và của sự giải thoát. Cái yên lặng ấy là một sự cảm nhận trực tiếp không thể giải thích bằng lời. Trong tập Nhập Lăng già kinh (Lankavatarasutra) người ta thấy một câu phát biểu của Đức Phật như sau :" Từ lúc Giác ngộ cho đến khi tịch diệt, Như
Lai chưa hề nói một lời nào, và cũng sẽ không nói một lời nào, bởi vì không nói chính là lời nói của Như Lai". (phỏng theo lời tóm dịch của học giả Alain Grosrey trong quyển Le Grand Livre du Bouddhisme, nhà xuất bản Albin Michel, 2007, trang 509). Nguyên văn câu trên đây theo bản Việt dịch của Tuệ Khải cư sĩ như sau: "Bồ tát Ðại Tuệ lại bạch đức Phật rằng : "Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai nói rằng, đêm nào ta chứng Ðại Bồ Ðề ? Ðêm nào ta vào Bát Niết Bàn ? Ta ở trung gian chẳng nói một chữ, Phật nói chẳng phải nói. Ðức Thế Tôn y vào những nghĩa gì mà nói lời như vậy ? Lời nói của Phật chẳng phải lời nói ?" (tài liệu trong "Trang nhà Quảng Đức", www.quangduc.com).
Câu phát biểu trên đây cho thấy Đức
Phật chỉ là sự yên lặng làm trung gian giữa chúng ta và sự thực tuyệt đối. Thật
vậy đối với sự thật tối hậu thì hiện-hữu là sai, không-hiện-hữu cũng là sai, vừa
không-hiện-hữu vừa hiện-hữu cũng là sai, không-hiện-hữu cũng không phải là không-hiện-hữu
cũng là sai. Tất cả đều sai nên chẳng có gì để mà nói cả. Tất cả những thứ gì nói
lên được chỉ là những tạo tác của tâm thức và lệ thuộc vào cái tôi của một cá
thể mà thôi. Dòng hiện hữu là một chuỗi hiện tượng mang tính cách tương liên, lôi
kéo nhau và liên tục trôi chảy không ngưng nghỉ. Dòng trôi chảy ấy không hề hàm
chứa bất cứ một đối tượng nào cũng không mang một chủ đích nào cả. Trên dòng trôi
chảy tự nhiên ấy không có một thực thể bền vững nào cũng không có một sự đứt đoạn
nào cả. Sự hiện hữu là hậu quả của một quá trình hình thành không ngừng và bất
tận, quá trình đó không có khởi thủy cũng chẳng có chấm dứt, tuyệt nhiên không
hàm chứa bất cứ một chủ thể hay một đối tượng nào.
Trước cái lôgic đó của mọi hiện tượng,
Đức Phật đã giữ yên lặng và không nói gì cả, các đệ tử của Ngài chỉ nghe thấy
tiếng vang từ những câu hỏi của họ dội lại từ sự yên lặng của Đức Phật mà thôi.
Tóm lại cái lôgic học của Phật giáo không phải dùng để đi tìm một sự thực nào cả
mà đúng hơn là để đánh thức sự u mê của chính mình, để ý thức được ngôn từ và
khái niệm chỉ có tính cách quy ước, mọi thắc mắc và biện luận chỉ đơn thuần là
những bám víu của tâm thức mà thôi.
Bures-Sur-Yvette,
ngày 02.04.10
Hoang Phong